Bài học

24/01/202409:46:00(Xem: 3034)
Dinh Cuong_Người Chụp Bắt Đại Hồ Cầm
Minh họa Đinh Cường


1.

Ngày 24 tháng 4 năm 2013
một người mẹ ở cà mau treo cổ giữa nhà
lá thư tuyệt mệnh mong có tiền phúng điếu cho chồng tiếp tục ở lại nuôi ba đứa con
trong thư chị xin chính quyền một cái sổ hộ nghèo
nếu không các con chị sẽ thất học
báo viết rằng quan tỉnh xúc động mãi
tự tử là công ăn việc làm cuối cùng của người đàn bà
làm ăn bằng cách tự treo cổ mình lên
tôi không biết chị có thành công không

2.

mười năm sau một người mẹ khác ở huế treo cổ
để lại 400 nghìn đồng cho 4 đứa con
tôi không biết chị đã buộc sợi dây thừng vào đâu
vì 5 mẹ con không có nhà
cái chết rất xúc động
không biết 4 đứa trẻ đã được cấp sổ hộ nghèo chưa
ai ở thành phố mộng mơ
xin hỏi giùm tôi

3.

mấy ngày trước một cặp vợ chồng ở trà vinh bị kết án 23 năm tù giam
vì bán đứa con út
để có tiền nuôi ba đứa lớn
giờ thì tất cả mồ côi
ngồi ngóng vào nhà tù đợi cha mẹ về
tôi muốn nói vài lời đạo lý nên cố tìm cách liên lạc với ông bà mấy đứa trẻ
nhưng họ không có điện thoại
họ còn đi cắt lục bình trên sông về đan giỏ
bán lấy tiền nuôi cháu
tôi ước họ được phong tặng danh hiệu nhà nghèo
nhưng dễ gì
vì nghèo như một chiến công hiển hách
người ta còn bận xây dựng nông thôn mới
không ai được phép nghèo

4.

Có nhiều người đã chọn treo cổ
tại sao các người lại bán con
mà không tự treo cổ mình lên
để làm thành những cái chết thật xúc động?
bán con
đó là một tính toán thật sai lầm
tuy không chắc việc tự treo cổ mình lên có thể giúp các người có được sổ hộ nghèo
nhưng ít nhất cũng khiến người ta xúc động
bài học là treo cổ
đừng bán con
hãy làm họ xúc động
đừng làm họ khó chịu.

Thái Hạo
21-1-2024

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ba bài thơ trên được trích từ tập sách "Không Đứng Mãi Trong Tranh" của Lê Chiều Giang, sách gồm những bài tùy bút ngắn tác giả viết "Mà như vẽ lại... không hề tẩy xóa, chẳng tô vẽ thêm..." và những bài thơ "hiện thực đầy ẩn dụ". "Không Đứng Mãi Trong Tranh" của Lê Chiều Giang là cuốn sách đầu tay và duy nhất được tác giả gởi tặng đến những người bạn của Nghiêu Đề và bạn Cô, với lời Nguyễn Thị Thụy Vũ viết thay đề tựa: "Chúng tôi sẽ đọc Lê Chiều Giang, những giòng chữ chảy lui về quá khứ. Một quá khứ không thể nào không nhắc tới, nhớ tới... Những quá khứ của thời đã "Chết đi, sống lại." Đọc Lê Chiều Giang là đứng lùi lại, ngắm nhìn những bức tranh vẽ lại kỷ niệm, bạn bè, tình yêu, những điều rất xa xưa, bằng cặp mắt của hiện tại, bức tranh của những tháng ngày cũ ẩn hiện bằng cảm xúc riêng của tác giả, nhưng rất chung như chính trăn trở của bạn bè, thế giới, thời đại của Cô. Đọc thơ Lê Chiều Giang, là để ngọn khói trong lòng mình bay lên, là "Mổ trái tim.
Thơ ba dòng là một thứ “hố đen” trong vũ trụ thơ. Đó là thứ “thơ còn lại” sau khi thiêu rụi những rườm rà, những quy cách, những lối mòn của những đường lối thơ đã trở nên chán ngắt mà, trong đó, nổi bật nhất, là sự mượt mà du dương của chủ nghĩa lãng mạn. Thơ ba dòng, do đó, là thơ để nghĩ hơn là để ngân nga như những nhạc điệu êm tai và, trong tương tác với người đọc, như là một thứ thơ đã nén chặt, nó sẽ bùng nổ theo những liên tưởng và suy tưởng không ngờ.
Thanh âm một cõi Sa Bà / Ba ngàn thế giới cũng là tại tâm / Nước non chung một cung trầm / Máu sa lệ sót những lầm than đau
Mối tình đầu đã giết dì tôi / như người ta giết bông hoa / cắm lên bàn thờ / héo hon tháng ngày còn lại. / Dì tôi yêu thích và buồn theo tiếng hát / “Đồi Thông Hai Mộ” / Như thể mối tình trong ca khúc này / là tâm sự của dì tôi.
nguyên thủy là kêu gọi trở về / nơi cánh đồng của những trong lành tươi mát / chưa nảy sinh những dị biệt / chân đi trên phù sa / ướt những tấm lòng xanh ngát bao la
một ngày trôi giạt theo sóng vào bờ / một ngày quấn quýt từng bước chân trần / tuổi trẻ bềnh bồng không định hướng / một ngày câm nín xao động ôm trái tim mình / bay cao ngang ngửa trên ngọn cây mộc lan / trập trùng những nụ búp xanh tươi mơn mởn
Tập thơ thứ 11: “Đời Sống Làng Quê” ấn hành năm 2009. Được xem như một khúc quanh trong sự nghiệp thi ca của Louise Gluck. Khác hẳn với tập “Hoa Diên Vĩ Hoang Dại”, 1992, với nội dung siêu hình và siêu nhiên, đã tạo cho bà nhiều danh vọng. 1. “A Village Life” mang đến cho độc giả những cảm xúc thâm trầm về tâm sinh lý của cá nhân và xã hội. Một loại xã hội thực tế, dùng lám ẩn dụ, tuy hiện diện nhưng gần như bị lãng quên bởi đời sống phố thị rộn ràng nhốn nháo. Những mẫu chuyện ngắn thật ngắn, nhỏ thật nhỏ, đôi khi phức tạp, ly kỳ. Đa số bình thường với những nhận xét tinh tế:
Đàn ông biết được phụ nữ bao nhiêu? Tôi dùng chữ “biết”, không phải ý chữ “hiểu”. Tôi không dùng chữ “đàn bà” vì e rằng thiếu kính trọng. Tôi lấy vợ đã gần nửa thế kỷ. Đã bắt tay, chào hỏi vài ngàn phụ nữ và nhìn ngắm họ qua trăm ngàn vóc dáng khi du hành nhiều nơi trên thế giới, nếu tính luôn trên truyền hình, qua video, con số có thể lên hàng triệu. Nói như vậy, bạn đọc có thể lầm tưởng tôi là người có bản lãnh biết về phụ nữ, thực tế, như Louis de Bernières đã nói: “Đường lối phụ nữ chinh phục trái tim đàn ông là khiến cho anh ta tưởng bở đang làm cô thích thú.” (“That's how a woman wins a man heart, by making him think that he amuses her.)
điều nguyên vẹn nhất / vẫn nằm im trong tim / ngày mùa thu nhớ dòng sông / nấm đất buồn tênh bên lở bên bồi / quăng viên sỏi trắng cạnh chiếc cầu run rẩy / bàn tay nào níu giữ / bạn bè và tình nhân / ngẩn ngơ năm ba lời tiếc nuối / con chim non hót mấy tiếng cội nguồn
Thế giới giờ này người né người! / Ngồi trên xe bus gắn máy lạnh, hoặc xe bò cọc cạch lăn bánh, / người ngồi xa người, khoảng cách an toàn, một thước rưỡi. / Anh xa tôi! Tôi xa em! Ta xa nhau! Đúng 2 thước. / Giờ này đôi ta hôn nhau nụ hôn gió qua khẩu trang! / Ai đó lỡ miệng ách-xì một, hoặc hai tiếng, hoặc một tràng; / Hết rồi những ánh mắt ái ngại, / những lời nói cảm thông, “God bless,” hoặc “Trời, Phật, Chúa chữa!”