Nhà Thơ Công Giáo Lê Đình Bảng & Kinh Cầu Mùa

10/10/202500:00:00(Xem: 836)

NHÀ THƠ LÊ ĐÌNH BẢNG 1
Nhà thơ Lê Đình Bảng

Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...

“Kinh Cầu Mùa” thi phẩm thứ 25 của ông, gồm có 68 bài thơ, với bút pháp và đề tài quen thuộc, nhiều ấn tượng về hình ảnh và đức tin của những người Công giáo thuần thành, đã để lại những rung động và cảm nhận tốt đẹp trong lòng những độc giả yêu mến thơ, không phân biệt lương, giáo...

“Kinh cầu mùa”, trong nếp sống đức tin của người Công giáo, được ông trân trọng, dùng làm tên tựa đề cho thi phẩm, và cũng là tựa đề của 2 bài thơ trong thi tập. Đó cũng chính là những lời cầu nguyện trong các mùa phụng vụ của Giáo hội, với ý nguyện chuẩn bị tâm hồn sám hối, cầu xin ơn Chúa cho xã hội và cuộc sống... Ta hãy lắng lòng nghe ông khấn nguyện:

 “ Lạy Mẹ, lạy Cha, Non cao, biển cả
 Bốn phương trời, mười phương đất bao dung
 Con lạy vong linh đồng bái, rẫy rừng
Gặp ai, cũng thấy dè chừng, ngờ vực”
 
 “ Thấy như mình đang làm theo vô thức
Cũng cách ly, cũng rào trước, đón sau
 Cố gượng vui, cho đủ cả sắc màu
Dịch từng ngày, đang diễn ra phức tạp...” (Kinh cầu mùa 1)

Vì sao vậy? Điều gì xảy ra, khi nhà thơ đã khẩn thiết?:

 “ Quê hương ơi có điều chi gấp gáp
 Hỏi vì sao, trâu chậm, uống nước bùn
Họ coi mình như nước lã, người dưng
 Mưa đều khắp. Sao quê mình hạn hán?” (Kinh cầu mùa 1) và tác giả đã tự trả lời:

 “ Em có yên thân ở nơi di tản
Hẹn ngày nào về? Mùa nắng? Mùa mưa?
 Mình chờ nhau vào giữa lúc ban trưa
Dưới chân Đức Mẹ Hòa Bình, Em nhé...
... Em bảo tôi, đây là bờ, là bến
Là chốn nương thân yên ấm một đời.”

Bìa KINH CAU MUA,
Bìa Kinh Cầu Mưa
Với một bài thơ “ Kinh cầu mùa” khác trong tập, ở thể loại thơ lục bát truyền thống, cùng với chủ đề chính của thi phẩm, thi sĩ Lê Đình Bảng đã lồng trong lời nguyện cầu “mùa”:

“ Ai về phương ấy xanh rì
 Và ai ra ngóng tà huy, chợt buồn
 Lạy trời cho lúa trên non
Vẫn xanh tươi lá và xôn xao cành...” ( Kinh cầu mùa), và một tình yêu thánh thiện, nguồn cảm hứng bất tận của thi ca, cùng lòng tin yêu cuộc sống, hãy nghe ông “thì thầm”:
 “ Lạy trời, mưa cứ vây quanh
Để Em cuống quýt đợi mình ngoài hiên
Tôi chong đèn, thức thâu đêm
 Khi đong đưa hát, khi mềm mại ru”.
 
Và: “ Phải chăng, lòng kẻ đương yêu
 Em tôi còn có trăm điều viển vông...” để rồi:
 
 “Hai người, một mái nghiêng che
Tiếng chuông thiêm thiếp bên kia giáo đường
 Hồn tôi, con vạc kêu sương...” (Kinh cầu mùa).

 Một chút buồn lắng đọng, bâng khuâng và cả... vu vơ, của người tình si?

Là một thi sĩ Công giáo, một “tác giả có thế giá”, như trước đây Ban văn hóa Giáo phận Xuân Lộc đã nhận định. Thi sĩ Lê Đình Bảng đã dành cả cuộc đời mình, “thi hóa” đức tin tôn giáo thành những bài thơ đi sâu vào lòng người, đó là những thi khúc:

 “ Tháng giêng, về Long Beach. Phút hiển linh. Kinh cáo mình. Xin Mẹ chữa lành. Lễ vượt qua. Về bến bờ nào, Chúa ơi. Nơi hành lang nhà Chúa v.v...” trong tập. Độc giả dễ dàng bắt gặp những câu thơ tràn đầy cảm xúc thi ca, song cũng đầy đức tin ân phúc, như :

 “ Chào em nhé, tháng giêng về Long Beach
 Từng lũ chim non vừa mới ra ràn
 Cali, vẫn chiều vàng, nắng chói chang
 Có hơi ấm, biển bờ Tây rất nhẹ...
 Ơi cô gái, mang dầu đèn, đi lễ/ ...
Chiều, ngang qua tượng Đức Mẹ Ban Ơn
 Ta đứng đợi một mình, câu kinh muộn...” ( Tháng giêng, về Long Beach), hay như:

 “ Cái nhớ xứ người, cũng thèm, cũng vụng
 Dọn mình đi Em, xưng tội đầu năm
Mai, mưa mùa về, trở lạnh căm căm
 Ta núp kín ở sau lưng Đức Mẹ” (TGVLB), rồi những hình ảnh lam lũ, thực dụng, tốt, xấu, đời thường:

“ Kẻ trộm, đang đêm, khoét ngạch, đào tường”, “ người đàn bà đẻ đau, mang nặng”, “ gã nhà quê gặt hái, phơi phong”, “Khói đốt đồng, mùa lúa mới, vui mở hội...”.

 Tất cả đều như có bàn tay xếp đặt của đấng tạo hóa trong bài thơ “Kinh cáo mình”, lời thơ hồn nhiên, giản dị nhưng cũng đầy minh triết của niềm tin:

 “ Việc của Chúa, Chúa làm, nào ai biết
 Bởi thiên nhiên là bàn tiệc ê hề
 Dọn bày ra cho ăn uống thỏa thuê
 Để nếm trải đủ ngọt bùi thế sự” (KCM).
Lê Đình Bảng, bên cạnh niềm tin tôn giáo, ông còn hiện thân là một nghệ sĩ, với một tâm hồn thấu cảm, khi vận nước, quê nhà biển dâu, hoán cải, đành chấp nhận kiếp ly hương đầy thương xót:

 “ Nửa vòng trái đất xa khơi
Chúng con khẩn khoản dâng lời kêu van...”. Vì bởi:

 “ Ngày mai, đôi ngả, đôi đường
Quê hương con vẫn quê hương mịt mờ...”( Xin Mẹ chữa lành). Đó là:

 “ Nỗi nhớ mang tên Sài Gòn, Hà Nội
Cầu xin trời cho bão lũ mau qua
 Làm ơn hái dùm ta một chùm hoa
Và đặt dưới chân Mẹ, lời khấn nhỏ...” (Thư nhà).
Bên cạnh sự ly hương là tình “hoài hương” đau đáu, trĩu nặng, luôn khiến tác giả trăn trở với “ Thưa Mẹ, con không về kịp lễ”, Lê Đình Bảng viết:

“Thưa Mẹ, con không về kịp lễ
Bao năm đằng đẵng, những đêm dài
Vời trông mây trắng về phương nớ
Nguyện một lời kinh mỗi sớm mai
 
Xa Huế, xa một miền đất hứa
Thương chi, thương lạ, cứ thương hoài
La Vang, Quảng Trị, chừ mưa nắng
Đường đất đi về, ai vắng ai?”

Điệp khúc “ Thưa Mẹ, con không về kịp lễ” luyến láy đến 7 lần trong một bài thơ, như nỗi nôn nao, sốt ruột, mong về của người xa xứ, càng khiến bạn đọc thêm đồng cảm với ông, mà cùng ông:

“ Đành thôi Em, dỗ dành cơn đau
La Vang, đêm trắng, đêm không ngủ
Thắp nến lên, canh thức, nguyện cầu...” (TM,CKVKL)

Cái rưng rức khổ đau, của người ly hương, theo ông là:

“ Bởi có lúc, đành im hơi lặng tiếng
Để tập nghe, tập nói giọng nước ngoài
Lại một lần, phải hóa kiếp lão Lai
Sống là sống, mượn linh hồn người khác...” (Xuân ở một miền quê khác)

Người thi sĩ ấy, nhớ, và nhớ nhiều thứ:

“ Cái ổ rơm, bờ duối dại, đường đê
Và hết thảy những gì đang tàn lụi...
 
Nhớ nồi nước xông, vỏ bòng, vỏ bưởi
Bếp liu riu, bồng gạch đỏ riêu cua
Quê hương ơi, trong ngọn gió đầu mùa
Nắm lá thuốc, mẹ sao vàng hạ thổ!” (XƠMMQK)

“Hoài hương”, hoài hương! Ai xa xứ mà không nặng lòng khắc khoải? Cám ơn thi sĩ đã nhắc nhớ cho mọi người...
Và người thi sĩ ấy đã không mềm yếu, nhận ra những điều từ chữ nghĩa:

 “ Phải biết giữ, để bút không cạn mực
 Phải hà hơi, để ngôn ngữ có hồn
Uống từng lời vàng, trong mỗi dụ ngôn
 Những va chạm thấm sâu vào chữ nghĩa” (Giữa những vòng gai).

 Phải chăng đó cũng chính là nghệ thuật thi ca của thi sĩ Lê Đình Bảng? Có cả những điều bất diệt:
 “ Thơ, có cả muôn chiều từ thiên địa
 Ẩn mình trong ngóc ngách của linh hồn” (GNVG)...

Còn nhiều, nhiều nữa những dụ ngôn và minh triết trong ngóc ngách linh hồn ông, một cây viết già dặn, sâu sắc, một “Đức ông” của nghệ thuật thi ca Công giáo...Và xin mời, những độc giả yêu mến, quí trọng ông, thi sĩ Lê Đình Bảng, hãy cùng khám phá...

Trần Hoàng Vy
Katy, TX, October, 2025 
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mời đọc ba bài thơ: 1. Thảnh Thơi Đường Ngộ của Hoàng Xuân Sơn. 2. Nhẫn Nại của Thy An. 3. Buổi Trưa Ấy của Trần Yên Hòa
Có ai lật dùm pho Sử Việt | 50 năm máu vẫn thấm từng trang | Có ai cầm khăn thấm hộ | 50 năm sao lệ vẫn chứa chan.
Em là con cá Hồi | mấy chục năm sống nhờ biển khác | suối nào đợi em về | cho em trầm mình gửi nắm xương da | ôi những con suối quê hương
Hãy sống thêm một ngày nữa / Tới trước cánh cửa em chưa bao giờ mở ra / Hãy đọc lời ai điếu trên mộ chúng ta / Hãy đi qua / Dòng sông mùa lũ / Đặt tâm hồn / Vào trong tay một người khác / Hãy bắt đầu / Ngồi xuống / Giữa kẻ thù / Hãy để mưa / Rơi trên nghĩa địa / Hãy để tự do làm thành trí nhớ / Của quê hương chúng ta, hãy để người thiếu nữ / Đã chết trở thành hoa, hãy bắt tay một người .
Tháng tư nắng quái trên tàng lá / Ngày nóng rang, khô khốc tiếng người / Nước mắt ướt đầm trên mắt mẹ / Nghìn đêm ai khóc nỗi đầy vơi? / Tháng tư em dắt con ra biển / Hướng về nam theo sóng nổi trôi / Thôi cũng đành, xuôi triều nước lớn / Làm sao biết được, trôi về đâu?
Em biết không, khi em chết trước. Giường ngủ sẽ chết theo. Toàn thể căn nhà đều bệnh nặng.
Dù đứng bên bờ vực của tận diệt, con người vẫn có thể cứu chuộc chính mình bằng ngôn từ và ký ức, đó là tinh thần của giải Nobel Văn Chương năm nay. Trong ánh sáng của niềm tin, Việt Báo đăng lại bài thơ “Hãy để nước Mỹ lại là nước Mỹ” của Langston Hughes – một khúc ca vừa đau đớn vừa thiết tha, viết gần một thế kỷ trước, mà như viết cho thời đại ngày nay. Giấc mơ Hughes gọi tên lại vang lên – giấc mơ về một xứ sở nơi lời hứa của nước Mỹ là hơi thở chung của những người cùng dựng lại niềm tin vào công lý, vào tự do, vào chính con người.
Đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp, nhất là trong tập Tôi Cùng Gió Mùa, nếu cho là chủ quan, tôi vẫn nói rằng, Khí thơ của Nguyễn Xuân Thiệp là khí thu. Trăng ở thơ đó là trăng thu. Gió ở thơ đó mang cái hắt hiu thu. Không biết tại sao, chỉ thấy Khi đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp tôi lại liên tưởng đến cảm xúc của Trương Trào trong U Mộng Ảnh xưa: “Thơ và văn được như cái khí mùa thu thì là hay.”. Nguyễn Xuân Thiệp, xuất hiện lần đầu tiên trên dòng thơ của văn học miền Nam Việt Nam vào năm 1954 trên Thẩm Mỹ Tuần Báo với bài thơ Nhịp Bước Mùa Thu. Bài thơ tính đến lúc này là 71 năm -tiếng thở dài một đời người-, hôm nay tôi đọc lại, cảm xúc vẫn bị lay động bởi hình ảnh u buồn của lịch sử vào thời gian xa xăm đó.
Qua khu rừng lau chiều rất ốm cọng dài ôm cọng ngắn hấp hiu làm sao ngắt được lùm hoa sóng níu ngọn thương thân bãi dập dìu
Cây xanh trên miễu đình | Hưởng bốn mùa cúng vái | Quỳ lạy những hình nhân | Thấm đẫm mùi nhang khói
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.