Hôm nay,  

Han Kang: The White Book – Hành Trình Trắng

24/10/202500:00:00(Xem: 1029)
The White Book Cover 

“Những vòng hoa sương trôi ngang thành phố
Những bông tuyết xoay giữa tầng không
Tôi nghĩ làm sao tôi có thể dâng cho chị
những giấc trắng…”
 
(Han Kang -- từ bản Anh ngữ của Deborah Smith, 2017.)
 
***

Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng.

Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách.

Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng  The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.

Như tên gọi, The White Book không ồn ào, không gây tranh luận, chậm rãi và kiên nhẫn như hạt sương mai, như làn khói loãng tan trong không khí. Chính cái lặng ấy đưa người đọc đến nơi sâu thẳm: nỗi mất mát không kịp có hình thù, không kịp thành ký ức, nhưng vẫn ở đó, dai dẳng như khoảng trắng trên trang giấy.

Cuốn sách không kể cốt truyện nào, mà như một tập ghi chú, trong đó khoảng trắng giữa chữ cũng quan trọng không kém những hàng chữ. Poetry School gọi đó là “nhật ký-phác thảo”, những mảnh ý tưởng  tạo ra một bản thảo, nơi từng con chữ là những giải khăn sô trắng phủ lên vết thương -  không để chữa lành, mà để nỗi đau có không gian thở. Translating Women gọi cuốn sách này là một “bài cầu nguyện” – chẳng phải để cầu xin điều gì, mà để mở ra một khoảng lặng, nơi hai chị em có thể gặp nhau.

“Em nhìn mọi thứ khác đi khi em nhìn bằng đôi mắt chị.
Em bước khác đi khi bước trong cơ thể chị.
Em muốn chị nhìn thấy những gì tinh khiết, trong lành –
trước khi bạo tàn, buồn bã, tuyệt vọng, nhơ nhớp, khổ đau thành hình –
những điều tinh khiết dành riêng cho chị...”

Ở đó, The White Book mở ra không chỉ như một nỗi tưởng niệm, mà như cuộc đối thoại kéo dài giữa người sống và người chị đã khuất. Mỗi trang viết là một cách “sống thay” – sống để nhớ, sống để trao lại cho người chị chưa kịp thấy ánh sáng mặt trời một phần đời dịu dàng tinh khiết mà chị đúng ra phải được sống.

Mất mát trong The White Book không đơn lẻ. Bên cạnh người chị sơ sinh chưa qua hai giờ sống thấp thoáng bóng bạn bè, người thân, những mất mát lặng lẽ khác trong cuộc đời. Tang chế ở đây không phải một nốt đơn, mà là hợp âm nhiều tầng, lặng mà dày, trống mà đầy. Thành phố nơi Han sống – Warsaw – với vết thương chiến tranh và mùa đông phủ tuyết – trở thành phông nền cho cuốn sách. Những con đường mù sương, ánh sáng lạnh, bầu trời xám, tất cả đan cài vào bản đồ tâm tưởng của bà. Han chọn sống tách biệt trong thành phố xa lạ ấy như một hành giả, để nghe màu trắng trong cô đơn, để thiền với những mất mát của chính mình; biến Warsaw thành một “vùng phủ trắng” cho ký ức hiện diện. Tờ The Guardian gọi đó là một “psychogeography of grief”: nỗi đau bàng bạc giữa không gian, lịch sử và ký ức.


Trong tiếng Hàn, có chữ trắng của trong sáng và thanh khiết하얀 và chữ trắng của u buồn, chết chóc희다. Han Kang chọn chữ thứ hai, sắc màu vừa sáng vừa u ám, và để nó bao trùm toàn bộ cuốn sách. Nhưng văn phong của bà tuy vậy không bi lụy, mà vừa đủ tiết chế, như một lớp gạc phủ lên vết thương: không che giấu nỗi đau, cũng không định hóa giải, mà để người đọc nhìn xuyên qua, đủ gần để chạm vào mà không bật khóc. Có người bảo văn bà “kiệm lời”, rút gọn đến mức chỉ còn những nhịp thở, có lẽ cũng chính vì sự tiết chế ấy mà người đọc nghe được chính nhịp tim, mạch máu dưới da, và nghe cả tiếng cười – nụ cười trắng, đẹp, mong manh, ám ảnh.

Nếu màu trắng có âm thanh, thì trong The White Book, đó là thứ âm thanh lặng. Dashiel Dashiel Carrera – trong bài viết về The White Book – từng sánh nó với white noise, thứ âm nền dành cho những người mất ngủ, chứa mọi tần số nên rốt cuộc nuốt chửng mọi tiếng động khác trong đêm. Mất mát cũng vậy: nó hiện diện khắp nơi, bao gồm mọi cung bậc. Khi quá đầy, quá đau, nó trở thành phông nền, như lớp tuyết phủ dấu chân mình vừa in lên. Khi quay lại, ta thấy dấu vết đã biến mất – nhưng chính sự biến mất ấy là bằng chứng hiện hữu. Sự ồn ào quá độ, cũng như nỗi đau lặp lại, cuối cùng tan vào nền trắng – từ đó mọi sắc màu khác được pha chế.

Trắng trong Han Kang không còn là ánh trăng trải trên sông – làn mây tan loãng trên triền núi –  hơi nước bốc lên từ một tách trà – nơi mọi đường viền mờ đi trước khi tan biến. Nó là màu của tâm linh: “After white clothes dissolve into the air this way, a spirit will wear them.” Tạm dịch: “Khi y phục trắng tan vào không trung, linh hồn sẽ khoác nó vào.”  Màu trắng vì vậy, vừa là khoảng trống, vừa là ánh sáng - nhịp cầu nối giữa thân xác và linh hồn, giữa đời sống và mất mát.

Khi những mảnh trắng gặp nhau trên trang giấy, chúng chỉ về cùng một nơi: sự quá nhiều đến mức tan rã, sự trống rỗng đến mức đầy tràn. Han không trao câu trả lời. Bà chỉ đặt người đọc vào vùng tuyết rơi, để nhìn dấu chân mình biến mất. Và trong giây phút ấy, ta biết mình đã đi qua – biết rằng có một sự vắng mặt vẫn đang ở lại, mong manh như ánh trăng, mờ ảo nhưng không bao giờ tan biến – trong cuộc hành trình trở về màu trắng.

“I hope you will be able to live in this world”
(Em mong chị có thể sống trong thế gian này).
 
Nina Hòa Bình
 
Nguồn Tham khảo:
The Guardian; TLS; Poetry School; Translating Women (University of Exeter); World Literature Today; 3:AM Magazine; Jed Leah Henry, Los Angeles Review of Books, Dashiel Carrera.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Vâng, cảm ơn nhà thơ thiền sư Thiện Trí. Ý nghĩa rất minh bạch, rằng hãy về thôi. Về thôi, về mặc Cà Sa / Về thôi cởi áo Ta Bà phong sương... Hiển nhiên, không phải là đổi y phục, mà phải là chuyển hóa nội tâm. Cởi áo Ta Bà không đơn thuần là rời bỏ đời sống cư sĩ hay thế tục, mà là buông bỏ tâm vọng động, tâm phân biệt, tâm chấp ngã vốn đã bị phong sương của sinh tử bào mòn. Mặc áo Cà Sa không nhất thiết là khoác lên mình chiếc áo của người xuất gia, mà là khoác lên tâm từ bi, trí tuệ, và vô ngã.
Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng nhân kỷ niệm 50 năm xa quê hương sống đời viễn xứ (1975-2025). Sách được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac.
Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...
Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, “Hạt U Minh.” Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền... Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.
Khi giúp thực hiện tạp chí Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc phát hành vào tháng 5-2024, tôi đã được Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho hay có nhà xuất bản và cả độc giả đề nghị ông viết “hồi ký”. Chẳng hạn như anh Nguyễn Hiền Đức, người độc giả đặc biệt quý mến anh, đã đánh máy và tặng lại bộ sưu tập những bài viết của ĐHN, có lần tỏ bày: “... tôi kính cẩn thưa trình với ông rằng tôi mong sớm được đọc Hồi ký của ông. Nhớ lại, ông đã nhiều lần “thúc hối” thầy mình là Nguyễn Hiến Lê viết hồi ký như André Maurois đã từng làm với Un ami qui s’appelait moi vậy. Trước nay tôi vốn thích đọc Hồi ký, và các cuốn hồi ký mà tôi thích nhất vẫn là cuốn của Nguyễn Hiến Lê, Đào Duy Anh, Quách Tấn, Trần Văn Khê…, và, chắc chắn sẽ rất thích Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc. Tôi không dám nói sai lời và cũng như nhiều độc giả chí cốt của Đỗ Hồng Ngọc nóng lòng chờ đợi Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc.”
Ngày Chủ nhật 12 tháng 10 sắp đến, vào lúc 2 giờ chiều, một nhóm thân hữu của họa sĩ Mít Đặc, tức kiến trúc sư Võ Phượng Đằng, sẽ tổ chức buổi ra mắt tuyển tập biếm họa Một Thời Không Quên gần 350 trang, khổ giấy 8.5x11 inches, của ông tại Palette Art Gallery, 10925 Beechnut St, Houston, Texas. Nhằm giới thiệu tuyển tập này với độc giả, Việt Báo xin gửi đến quý vị bài Tựa của kỹ sư Nguyễn Ngọc Bảo đăng trong tuyển tập. Được biết giá mỗi quyển Một Thời Không Quên là 30 Mỹ kim kể cả cước phí. Độc giả muốn mua sách, xin liên lạc qua email address [email protected].
Chữ dậy men hương ngọt còn đọng lại trên vân tay, tôi lạc bước vào thế giới thi ca của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Ở đó, mỗi cảm xúc tinh khôi là một dòng chảy ký ức, kiến tạo nên một vũ trụ nội tâm, nơi thời gian dường như ngưng đọng. Nơi trái tim nghe từng thớ sóng mơ, nơi vầng trăng soi giọi. Chị là một thi sĩ của tình yêu, của nỗi nhớ, và của những điều không thể gọi tên...
Nhan đề một tập thơ mới của nhà thơ Trần Mộng Tú, Thơ Trong Tay Áo, một tập thơ song ngữ Việt-Anh, phát hành năm 2025, được ra mắt trong không gian một căn phòng sáng, ấm, với những bức tranh của họa sĩ Nguyễn Trung, cùng bước ra vào nhẹ nhàng với nụ cười hiền của cô chủ nhà, nhà thơ trẻ Sông Văn. Một buổi chiều thơ sẽ lưu lại rất đẹp trong ký ức của thân hữu có mặt...
Tôi luôn luôn nhớ tới những trận đốt sách ở Miền Nam Việt Nam sau năm 1975, mỗi khi nhớ tới các công trình nghiên cứu của Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh... Họ không phải là những người chữa lửa. Thực sự, họ cũng là nạn nhân của một thời hậu chiến, khi các tác phẩm của họ cũng bị chính quyền mới thu vét để đốt. Họ là những người nhặt lại từ các trang giấy bị thiêu rụi để thu thập, tái hiện và lưu giữ các tác phẩm văn học Miền Nam trước 1975.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.