Hôm nay,  

Han Kang: The White Book – Hành Trình Trắng

24/10/202500:00:00(Xem: 1031)
The White Book Cover 

“Những vòng hoa sương trôi ngang thành phố
Những bông tuyết xoay giữa tầng không
Tôi nghĩ làm sao tôi có thể dâng cho chị
những giấc trắng…”
 
(Han Kang -- từ bản Anh ngữ của Deborah Smith, 2017.)
 
***

Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng.

Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách.

Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng  The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.

Như tên gọi, The White Book không ồn ào, không gây tranh luận, chậm rãi và kiên nhẫn như hạt sương mai, như làn khói loãng tan trong không khí. Chính cái lặng ấy đưa người đọc đến nơi sâu thẳm: nỗi mất mát không kịp có hình thù, không kịp thành ký ức, nhưng vẫn ở đó, dai dẳng như khoảng trắng trên trang giấy.

Cuốn sách không kể cốt truyện nào, mà như một tập ghi chú, trong đó khoảng trắng giữa chữ cũng quan trọng không kém những hàng chữ. Poetry School gọi đó là “nhật ký-phác thảo”, những mảnh ý tưởng  tạo ra một bản thảo, nơi từng con chữ là những giải khăn sô trắng phủ lên vết thương -  không để chữa lành, mà để nỗi đau có không gian thở. Translating Women gọi cuốn sách này là một “bài cầu nguyện” – chẳng phải để cầu xin điều gì, mà để mở ra một khoảng lặng, nơi hai chị em có thể gặp nhau.

“Em nhìn mọi thứ khác đi khi em nhìn bằng đôi mắt chị.
Em bước khác đi khi bước trong cơ thể chị.
Em muốn chị nhìn thấy những gì tinh khiết, trong lành –
trước khi bạo tàn, buồn bã, tuyệt vọng, nhơ nhớp, khổ đau thành hình –
những điều tinh khiết dành riêng cho chị...”

Ở đó, The White Book mở ra không chỉ như một nỗi tưởng niệm, mà như cuộc đối thoại kéo dài giữa người sống và người chị đã khuất. Mỗi trang viết là một cách “sống thay” – sống để nhớ, sống để trao lại cho người chị chưa kịp thấy ánh sáng mặt trời một phần đời dịu dàng tinh khiết mà chị đúng ra phải được sống.

Mất mát trong The White Book không đơn lẻ. Bên cạnh người chị sơ sinh chưa qua hai giờ sống thấp thoáng bóng bạn bè, người thân, những mất mát lặng lẽ khác trong cuộc đời. Tang chế ở đây không phải một nốt đơn, mà là hợp âm nhiều tầng, lặng mà dày, trống mà đầy. Thành phố nơi Han sống – Warsaw – với vết thương chiến tranh và mùa đông phủ tuyết – trở thành phông nền cho cuốn sách. Những con đường mù sương, ánh sáng lạnh, bầu trời xám, tất cả đan cài vào bản đồ tâm tưởng của bà. Han chọn sống tách biệt trong thành phố xa lạ ấy như một hành giả, để nghe màu trắng trong cô đơn, để thiền với những mất mát của chính mình; biến Warsaw thành một “vùng phủ trắng” cho ký ức hiện diện. Tờ The Guardian gọi đó là một “psychogeography of grief”: nỗi đau bàng bạc giữa không gian, lịch sử và ký ức.


Trong tiếng Hàn, có chữ trắng của trong sáng và thanh khiết하얀 và chữ trắng của u buồn, chết chóc희다. Han Kang chọn chữ thứ hai, sắc màu vừa sáng vừa u ám, và để nó bao trùm toàn bộ cuốn sách. Nhưng văn phong của bà tuy vậy không bi lụy, mà vừa đủ tiết chế, như một lớp gạc phủ lên vết thương: không che giấu nỗi đau, cũng không định hóa giải, mà để người đọc nhìn xuyên qua, đủ gần để chạm vào mà không bật khóc. Có người bảo văn bà “kiệm lời”, rút gọn đến mức chỉ còn những nhịp thở, có lẽ cũng chính vì sự tiết chế ấy mà người đọc nghe được chính nhịp tim, mạch máu dưới da, và nghe cả tiếng cười – nụ cười trắng, đẹp, mong manh, ám ảnh.

Nếu màu trắng có âm thanh, thì trong The White Book, đó là thứ âm thanh lặng. Dashiel Dashiel Carrera – trong bài viết về The White Book – từng sánh nó với white noise, thứ âm nền dành cho những người mất ngủ, chứa mọi tần số nên rốt cuộc nuốt chửng mọi tiếng động khác trong đêm. Mất mát cũng vậy: nó hiện diện khắp nơi, bao gồm mọi cung bậc. Khi quá đầy, quá đau, nó trở thành phông nền, như lớp tuyết phủ dấu chân mình vừa in lên. Khi quay lại, ta thấy dấu vết đã biến mất – nhưng chính sự biến mất ấy là bằng chứng hiện hữu. Sự ồn ào quá độ, cũng như nỗi đau lặp lại, cuối cùng tan vào nền trắng – từ đó mọi sắc màu khác được pha chế.

Trắng trong Han Kang không còn là ánh trăng trải trên sông – làn mây tan loãng trên triền núi –  hơi nước bốc lên từ một tách trà – nơi mọi đường viền mờ đi trước khi tan biến. Nó là màu của tâm linh: “After white clothes dissolve into the air this way, a spirit will wear them.” Tạm dịch: “Khi y phục trắng tan vào không trung, linh hồn sẽ khoác nó vào.”  Màu trắng vì vậy, vừa là khoảng trống, vừa là ánh sáng - nhịp cầu nối giữa thân xác và linh hồn, giữa đời sống và mất mát.

Khi những mảnh trắng gặp nhau trên trang giấy, chúng chỉ về cùng một nơi: sự quá nhiều đến mức tan rã, sự trống rỗng đến mức đầy tràn. Han không trao câu trả lời. Bà chỉ đặt người đọc vào vùng tuyết rơi, để nhìn dấu chân mình biến mất. Và trong giây phút ấy, ta biết mình đã đi qua – biết rằng có một sự vắng mặt vẫn đang ở lại, mong manh như ánh trăng, mờ ảo nhưng không bao giờ tan biến – trong cuộc hành trình trở về màu trắng.

“I hope you will be able to live in this world”
(Em mong chị có thể sống trong thế gian này).
 
Nina Hòa Bình
 
Nguồn Tham khảo:
The Guardian; TLS; Poetry School; Translating Women (University of Exeter); World Literature Today; 3:AM Magazine; Jed Leah Henry, Los Angeles Review of Books, Dashiel Carrera.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)
Nhã Ca sáng tác bài “Một Đoạn Nhã Ca” vào năm 1972. Trước biến cố lịch sử 1975, bà là một trong vài nhà thơ nữ hàng đầu ở Miền Nam Việt Nam, với dòng thơ mang những tứ thơ sâu sắc, ngôn ngữ thơ lãng mạn, ý niệm thể hiện và bênh vực giá trị của người nữ. Thơ Nhã Ca có thể gom vào hai chữ “dám nói.” Bài “Một Đoạn Nhã Ca” mở đầu bằng 9 câu, kết bằng 3 câu, và 111 câu thân, tổng thể là 123 câu, chia ra 15 đoạn. Nhìn một cách tâm lý, phải chăng 15 đoạn thơ này đại biểu một số điều cho một đoạn tiểu sử ngầm của Nhã Ca? Nói một cách văn vẻ, phải chăng có 15 cửa sổ để mở nhìn vào căn nhà bí ẩn của một nhà thơ nữ? Đây là bài thơ truyền đạt qua thể thơ tự do. Số chữ không đều trong mỗi câu. Số câu không đều trong mỗi đoạn. Số đoạn không có giới hạn trong bài. Sự so le và thoát khỏi ràng buộc này nói lên tình tiết diễn đạt qua thơ không bị tù túng, ý thơ không bị chật hẹp trong luật lệ. Phù hợp với cảm xúc thôi thúc, ngổn ngang của tác giả và tạo ra cảm giác kích động của độc giả
Nếu phải tóm tắt các tác phẩm lớn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), có thể nói rằng ông đã phản ánh nỗi lòng của người trí thức Việt Nam cùng thế hệ, là những người bước vào tuổi 20 trong thời kháng chiến, chứng kiến sự đảo lộn của xã hội. Họ đã có thể có những phản ứng, hành động trước thời cuộc đó, nhưng phần nào bất lực không ngăn chặn được những xáo trộn xảy ra chung quanh. Truyện dài Dòng Sông Định Mệnh (1959) là một tác phẩm như thế. Ở mặt nổi, đó là một chuyện tình lãng mạn, hai người trẻ, một dòng sông. Nhưng sâu hơn, đó là bi kịch của những con người bị cắt đôi giữa lý tưởng và sự thật phũ phàng. Ở phương diện đó, Dòng Sông Định Mệnh có những chi tiết, những nhân vật hình mẫu sẽ trở lại trong bộ tiểu thuyết Khu Rừng Lau, nhất là tập Ba Sinh Hương Lửa (1962), mà ông sẽ viết sau này.
Krasznahorkai, trong các tiểu thuyết như Melancholy of Resistance hay Baron Wenckheim’s Homecoming, viết như người vừa chứng kiến ngày tận thế và vẫn phải tiếp tục kể, dù biết không còn có người nghe. Văn chương ấy, như James Wood nói, “vừa tuyệt vọng vừa kiêu hãnh, như một bản cầu siêu cho nhân loại.”
Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vừa từ trần vào lúc 10 giờ sáng ngày 14/10/2025 tại bệnh viện ở Nam California hưởng thọ 102 tuổi . Ông sanh năm Quí Hợi 1923 nên tính theo tuổi ta, ông thượng thọ 103 tuổi. Nhân đây, tưởng nhớ ông nên đắng lại bài viết Tác Phẩm Khu Rừng Lau Của Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vào ngày 5/11/2025
László Krasznahorkai – nhà văn Hungary vừa được trao giải Nobel văn chương – nổi tiếng với những câu văn dài như một hơi thở kìm nén, nơi ý tưởng đi qua địa ngục mà vẫn giữ vẻ điềm tĩnh của thiên thần. Một thiên thần lướt trên chúng ta là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách ấy: giữa bùn lầy chiến hào và tiếng pháo rít xé trên đầu, một người lính cụt chân, mắt mờ, lại giảng về văn minh số, về văn hóa như bản năng sinh tồn của loài người. Chiến tranh vẫn gầm thét, nhưng lời anh vẫn tuôn, dài, sáng, và lạ thay – đầy hy vọng. Bản Việt ngữ của Ngu Yên dịch từ bản Anh ngữ của John Batki, giữ nguyên nhịp câu, những đoạn văn dài như dòng suy tưởng không dứt.
Khoảng hai giờ trước khi Mats Malm, vị thư ký trầm tĩnh của Viện Hàn Lâm Thụy Điển, bước ra, thế giới vừa nghe tin: Israel và Hamas ký hiệp định hòa bình. Một mẩu tin nhỏ, nhưng làm cả hành tinh thở nhẹ. Có lẽ, nếu tinh ý, người ta đã thấy khóe miệng vị diễn giả ấy nhích lên một nụ cười như thể dành riêng cho nhân loại, sau khi đã hứng chịu quá nhiều tuyệt vọng. Và rồi, cái tên được xướng lên: László Krasznahorkai, nhà văn Hungary – kẻ viết những câu văn dài như cơn hấp hối, nhưng mỗi chữ lại sáng rực như ngọn đèn dầu giữa đêm mất điện. Một bất ngờ… mà thật ra chẳng mấy ai bất ngờ. Viện Hàn lâm Thụy Điển, như thường lệ, lại khiến người ta ngạc nhiên bằng cách không hề ngạc nhiên.
Phân lý chữ nghĩa Bùi Giáng là việc làm nghiêm túc một cách khôi hài. Phê bình thơ Bùi Giáng là khôi hài một cách nghiêm túc. Tôi chú ý đến hai đối cực hài hòa này vì càng suy nghĩ, càng lý luận, thì càng cảm nhận chất khôi hài trong thơ Bùi Giáng là một đặc sản. Thưởng thức thơ Bùi Giáng, trước hết là thú vị với cách thế đùa nghịch chữ nghĩa và tứ thơ của ông, tiếp theo là những ngạc nhiên về chất lượng ngộ nghĩnh và biến hóa trong ý nghĩ, tư tưởng của Bùi Giáng một cách sâu sắc và sự sâu sắc này mang đến lòng ngưỡng mộ, vì sự sâu sắc này mà chúng ta cần phải nghiêm túc.Trước Bùi Giáng có rất nhiều nhà thơ làm thơ hài hước nổi danh như Tú Xương, và các ông tú sau này. Hầu hết các nhà thơ thành danh đều có thơ hài hước, như Nguyễn Khuyến, Tản Đà, vân vân. Tuy nhiên, gần như những hài hước đó luôn kèm theo sự mỉa mai, nụ cười xách mé, mỉm cười khinh bỉ, nín cười che miệng, cười lớn chế nhạo. Trong khi chất khôi hài của Bùi Giáng qua thơ chỉ tạo ra nụ cười hoặc tức cười.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.