Hôm nay,  

“Một đoạn Nhã Ca” tự thức

24/10/202500:00:00(Xem: 1967)

Nhã Ca
  1. Nhà Thơ/Nhà Văn Nhã Ca ngày sinh nhật 86 tuổi, 20 tháng 10, 2025, tại Malmo, Thụy Điển. 2. Bìa tập Thơ Nhã Ca (Việt Báo tái xuất bản California, 2022.)
 
Đoạn nào?
Một đời người có được bao nhiêu đoạn?
Đoạn? Là ngã rẽ hoặc khúc quanh?
Đoạn? Là một giai đoạn Nhã Ca hoặc một đứt đoạn Nhã Ca?

Chỉ có thơ mới đủ khả năng tạo mã hiệu để xúc tích và chôn giấu những bí ẩn, những gì không thể minh bạch, những gì chính tác giả cũng không thể cảm nhận rõ ràng. Thơ là một loại tiểu sử ngầm bên trong tiểu sử chính. Một loại tiểu sử tâm lý trong tiểu sử xã hội.

Chỉ có thơ mới có bản sắc làm cho xấu trở thành đẹp và đẹp vượt lên để đẹp hơn.

Chỉ có thơ mới có năng lực tạo ra sự đồng cảm một cách nhanh chóng và rung động. Ca khúc cũng có đặc điểm này nhưng phải dựa vào giai điệu.

Nhã Ca sáng tác bài “Một Đoạn Nhã Ca” vào năm 1972. Trước biến cố lịch sử 1975, bà là một trong vài nhà thơ nữ hàng đầu ở Miền Nam Việt Nam, với dòng thơ mang những tứ thơ sâu sắc, ngôn ngữ thơ lãng mạn, ý niệm thể hiện và bênh vực giá trị của người nữ. Thơ Nhã Ca có thể gom vào hai chữ “dám nói.”

Bài “Một Đoạn Nhã Ca” mở đầu bằng 9 câu, kết bằng 3 câu, và 111 câu thân, tổng thể là 123 câu, chia ra 15 đoạn. Nhìn một cách tâm lý, phải chăng 15 đoạn thơ này đại biểu một số điều cho một đoạn tiểu sử ngầm của Nhã Ca? Nói một cách văn vẻ, phải chăng có 15 cửa sổ để mở nhìn vào căn nhà bí ẩn của một nhà thơ nữ?

Đây là bài thơ truyền đạt qua thể thơ tự do. Số chữ không đều trong mỗi câu. Số câu không đều trong mỗi đoạn. Số đoạn không có giới hạn trong bài. Sự so le và thoát khỏi ràng buộc này nói lên tình tiết diễn đạt qua thơ không bị tù túng, ý thơ không bị chật hẹp trong luật lệ. Phù hợp với cảm xúc thôi thúc, ngổn ngang của tác giả và tạo ra cảm giác kích động của độc giả.

Về mặt tình cảm, thơ tự do dễ thể hiện tính chân thực và phát biểu cảm xúc qua nhiều cách biến hóa. Có thể sử dụng lời nói thường ngày nên gần gũi với thực tế, dễ thông cảm. Do đó, giọng văn dễ mới lạ và dễ gây thuyết phục.

Về mặt tứ và ý, thơ tự do dễ bộc phát khả năng sáng tạo vì không bị gò bó, hình ảnh dễ sống động, ẩn dụ và biểu tượng có nhiều cơ hội vận dụng rõ ràng và sâu sắc, vì vậy, có thể tạo ấn tượng mạnh mẽ.

Thơ tự do thành công khi tạo ra tính cộng hưởng và ấn ký bằng tính độc đáo.

Nội tưởng, vọng mơ và nữ phận.

“Một Đoạn Nhã Ca” khởi đầu, một cách trực tiếp, đưa ra hình ảnh một người nữ nóng bỏng, sôi sục tâm tư, đang đối đầu với hạnh phúc đã được vinh hiển bằng những cách triết học, văn hóa, xã hội và đã được xác định ý nghĩa, giá trị nhưng hạnh phúc là một thứ vô hình, ai có thể bảo đảm thứ gì là hạnh phúc?

“Hỡi các địa cầu / các tinh tú và những thế giới ngoài hư không / đang rao truyền sự vinh hiển của hạnh phúc / tôi tìm tới / ngày hãy giảng nghĩa cho đêm / ánh sáng rù rì cho bóng tối / và ca tụng / tôi có người nữ / đứng trong vườn tôi nóng bỏng lửa”

Người nữ này rõ ràng không chỉ tìm kiếm trên mặt đất mà tầm thao thức vượt lên vũ trụ và cảnh giới siêu hình. Cô ấy hăng say, nôn nóng, thách thức những khó khăn, diễn tả qua cụm từ “bỏng lửa”    

Ý nghĩa và giá trị của hạnh phúc được rao truyền trở thành chủ đề mà tác giả muốn vạch trần, muốn độc thoại chất vấn, muốn truyền đạt đến độc giả.

1. Tự sự: Tôi linh hồn đầy bụi.

“Tôi có ngọn lửa xanh của nhơn từ / cả ngọn lửa đỏ của gian ngoa tàn sát

Những ký hiệu đối nghịch: lửa xanh / lửa đỏ; nhơn từ / gian ngoa dựng lên một nhân vật tôi, cô ấy, vừa tốt vừa xấu, vừa lương thiện vừa gian xảo. Có lẽ, khi tự nhận mình là ai, cô muốn biện minh cho một điều gì hoặc hành động nào đó. Nhìn qua quan điểm tâm lý học, có đều gì khiến cho cô ta nhọc nhằn, suy tư trong lửa xanh lửa đỏ đốt cháy.      

“tôi nguyện sự tối tăm mù mịt / bế lòng hoài thai / tôi nguyện sự mù lòa suốt đời trong ái tình / và những tiếng thở than / như thác đổ trên ghềnh ngày đêm không ngớt / rên siết, rên siết mãi / trong cổ họng trên thân xác / với linh hồn đầy bụi / Bụi là xác thân nhưng tù đầy thanh tịnh”       
       
Cụm từ “tôi nguyện” nghĩa là tôi mong muốn, xin được tối tăm mù mịt để mang thai. Câu hỏi, thai này là thai gì?

Tứ thơ: tiếng thở than như thác đổ, rên siết trong cổ họng, linh hồn đầy bụi, là hình ảnh tạo hiệu quả trên thị giác, thính giác và cảm giác hội tụ vào tưởng tượng của người đọc. Một tứ thơ thành công khi khơi dậy trải nghiệm của các giác quan tạo ra cảm xúc.

“dẫu tôi quạnh hiu như loài hươu trên núi cao / như con tê giác nhẵn sừng hùng hổ / hay con chim sẻ trốn trên mái nàng / tôi cũng luôn luôn nở hoa huyên náo / trong tình nhân, trong ái tình tôi / đỏ rực”

“Dẫu tôi sức yếu mỏng hao mòn vì buồn rầu / dẫu sự ô nhục bắt đầu vào lẩn trốn trong tôi / tôi bị quên đi như kẻ chết / múa may không ai nhìn / than khóc không ai biết”

Sự tương phản giữa con tê giác hùng hổ và con chim sẻ nhút nhát; giữa con hươu tung tăng trên núi cao và chim sẻ trốn dưới mái nhà, tác giả dùng hình ảnh so sánh này để biểu tượng sự hiu quạnh đa diện làm nền cho đóa hoa tình nở nhiệt huyết. Phải chăng càng hiu quạnh thì con người càng cần tình yêu? Càng bị áp lực của xã hội đè bẹp, nghiền nát, càng bám víu tình yêu như lối thoát duy nhất?

Sau khi tự giới thiệu bản thân qua tâm sự rối tạp rồi cô ấy chấp nhận bị lãng quên như kẻ chết, nhân vật tôi chuyển sang mô tả những dày xéo trong nội tâm. Yêu trong đời phiền loạn là một đề tài quen thuộc, một nỗi bất hạnh thường xuyên của con người, có thể nói là quá quen thuộc. Sư khác biệt giữa trình độ làm thơ là diễn đạt những gì quen thuộc trở thành không quen thuộc. Vì vậy, tác giả đã trình bày chất đam mê mong manh ấy qua những tứ thơ khác thường:

“Tôi sẽ có trong lòng đầy giặc giã / trận giặc âm thầm mà thanh bình là cái bóng ở xa / vì mọi phía luôn luôn có sự kinh khủng / tình nhân tôi đâu sợ gì cô đơn trên núi cao / mà vườn tôi cỏ hoa không mọc tới / bụi tro sẽ muôn đời ngợi khen / người yêu tôi / những hòn đá kỳ mạng trong tay hạnh phúc “

“Tôi đâu có đôi chân dài như ngựa / để băng qua nỗi buồn phiền / đạp trên nỗi đau đớn / thân phận tôi dòng nước luân lưu / từ chiếc xương sườn của chàng / ngày đêm hèn mọn / và thế gian trầm luân cơn đau đẻ thường xuyên “

Vào thời điểm 1972, các nhà thơ hàng đầu ở miền Nam thường rời bỏ thơ Hiện Thực và thể hiện thơ qua tính thơ Siêu Thực, tính thơ Ấn Tượng, tính thơ Biểu Tượng. Khả năng du nhập thơ Tây Phương vào thơ Việt nhanh chóng, một phần vì sự hay, đẹp và mới lạ của thơ phương ngoại, phần khác, vì tính hư cấu của các phong trào thơ Tây Phương thỏa mãn tâm tư và trí tuệ những gì không thể nói trực tiếp trong đời sống phức tạp, đầy va chạm và nhất là trong  thời ly loạn. Mùa hè đỏ lửa 72 là cao điểm của cuộc chiến Nam Bắc. Những tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với sự bất an, tàn phá, sức mạnh của phù du, chết và sống bất ngờ với chết, tự nhiên phải tìm đến lối thoát, dù biết thoát ra để bị vây khốn trở lại. Dù có chân ngựa dài cũng không thể băng qua, vì sự kinh khủng vây quanh mọi phía, vì thế gian luôn đau đẻ. Dùng nỗi đau riêng của phụ nữ để sánh với nỗi kinh khiếp của thế gian khiến người nữ nổi bật với cảm nhận khổ đau mà người nam không thể biết. 

47 câu thơ trên truyền đạt nỗi niềm hoài thai của nhân vật tôi. Chúng ta vẫn chưa thấy câu thơ nào giải mã về “bế lòng hoài thai.” Cô ấy bày tỏ một tâm sự bức xúc bi quan và hoài vọng bám víu vào tình yêu như một cách duy nhất để sống còn. Ẩn dụ vừa đẹp vừa ‘dơ’, vừa thiện vừa gian, vừa lửa xanh lửa đỏ, gói kín trong cụm từ “linh hồn đầy bụi.”

2. Tự thú: Tôi ăn lưỡi nhọn hoắt.

Chủ nghĩa Nữ quyền ảnh hưởng như thế nào trong “Một Đoạn Nhã Ca”?

Nữ quyền bắt đầu ở Tây phương vào cuối thế kỷ 19, làn sóng thứ nhất này tập trung vào quyền bầu cử và quyền sở hữu tài sản của người nữ. Làn sóng thứ hai khoảng từ 1960-1990, tập trung vào hiệu quả của quyền bình đẳng giữa nam và nữ, bao gồm quyền sinh sản, quyền về công việc và nhất là chống lại sự quấy nhiễu tình dục. Làn sóng thứ ba , 1990-2000, tập trung vào tính giao thoa, dị tính và những trải nghiệm đa dạng giữa phụ nữ.

Chúng ta nhận ra ngay là làn sóng nữ quyền thứ hai trùng hợp với gia đoạn bài “Một Đoạn Nhã Ca” ra đời.

“Hỡi những gian dối và kẻ ác / không ngừng vây hãm hạnh phúc tôi / những kẻ lòng dạ yêu tinh mang bộ mặt đẹp đẽ ngoài đời / sá gì một giọt máu dơ / tôi không đủ sức chảy / sá gì một giọt máu thừa / tôi không đủ sức cho / nơi tình nhân tôi / mặt trời đã rọi bao nhiêu bụi bặm / bao nhiêu ngày tháng tàn sát / cày sâu kiêu hãnh / chỉ còn lại lương duyên tôi và thai nhi / cao chót vót”

Chống cự lại kẻ ác, kẻ lòng dạ yêu tinh, chống lại bạo quyền và gian dối. Mạt sát, những kẻ ấy bằng đặc sản độc quyền của phụ nữ: giọt máu dơ nhất định không chảy, giọt máu thừa nhất quyết không cho. Một lần nữa, phụ nữ nổi bật với độc sản. Loại khí giới này, người nam đành ngẩn ngơ.

Trong đoạn thơ này, tác giả đã giải mã cho chúng ta biết về “hoài thai”. Không phải là bào thai siêu hình hay ẩn dụ, mà là lương duyên tạo ra em bé. Quyền của người phụ nữ được có thai. Gánh chịu tối tăm mù mịt để tình mẹ lên cao chót vót.

“Địa ngục sinh tử trong lòng ngươi / tôi mang tôi nạp mình / cần chi suy nghĩ / Đêm tối cần chi mặt trời / tôi nhìn thấy tình nhân, thấy vườn tôi bát ngát “
5 câu thơ này bày tỏ trong một lúc mệt mỏi, cô đã đầu hàng thế giới bên ngoài, tự nạp mình không cần cân nhắc. Lui vào nội tâm, nơi vườn tôi bát ngát với tình nhân. Đây có lẽ là đoạn thơ nhu mì nhất trong bài thơ, hội đủ lúc hăng say chiến đấu, lúc chán nản lui về.

“Hỡi những kẻ mang bụng dạ mình đi bán buôn / mang lương tâm mình vẽ vời cho những lý do / mang bộ mặt của mình lừa dối đạo đức / hãy lấp đầy dục vọng nơi tình nhân tôi / cùng bóng tối của bất nhơn / rồi cứ lên thiên đàng mà ca hát / còn tôi, tôi xin về địa ngục / vì chính tình nhân tôi là địa ngục / tôi sẽ sinh thêm huyết dơ / và tiếp tục chảy “

Sự chống đối không dừng lại nơi chống cự quyền lực thế tục, cô ấy chê bai cả nước trời, rồi tiếp tục phản kháng quyền gia trưởng của người nam, cho dù đó là người mà cô rất mực yêu thương và tìm về. Cô ta tuyên bố: “Chính tình nhân tôi là địa ngục.” Rồi cô tiếp tục tự hào với đặc quyền phụ nữ: “Tôi sẽ sinh thêm huyết dơ và tiếp tục chảy.”

“Tôi không đẹp đẽ gì / lòng tôi nuôi từ địa ngục / ái tình tôi nuôi bằng huyết đỏ xương khô / bởi thế loài người đã cho tôi đủ ngày đêm tai họa / hạnh phúc chọn tôi để phán đoán / hạnh phúc chọn tôi để trả thù / hạnh phúc nuốt tội ác ngon lành khác nào ăn chiếc bánh kem / còn tội ác cứ ngọt ngào trơn lu chói sáng.“ Tác giả diễn tả đoạn hạnh phúc và tôi khá li kì. Hành ảnh mới lạ. Ngụ ý có thể hiểu rằng nhân vật chính đã từng làm điều gì ác mà vẫn sống trơn tru chói sáng, hạnh phúc đến với cô ấy như nuốt chiếc bánh kem ngọt ngào. Nhưng cô đã thông tin, hạnh phúc chọn cô để trả thù. Như vậy, những trơn tru, ngọt ngào kia có phải nên nghĩ ngược lại?

Tâm lý học thường phân tích những trường hợp phản ý nghĩa của những người thường xuyên dằn vặt sâu sắc với tranh đấu giữa tốt và xấu, giữa thiện và ác, giữa bản băng và lý tri. Những tâm hồn này thường chìm vào bóng tối hơn là ánh sáng nhưng họ luôn xoay sở để bước ra dưới mặt trời. Dù hiểu như thế nào, chúng ta cũng cảm được, đoạn thơ này là lời tự thú khá mạnh mẽ.

“Hãy nhìn coi / đời sống có gươm đao / và chiếc lưỡi nhọn hoắt / hạnh phúc đôi khi tru điên như chó sói / lương tri tôi đôi khi gào thét như bão biển / như sự tối tăm muôn trùng / nhưng cũng sá gì những điều độc ác / trước khi về địa ngục / tôi cũng từng hóa làm hư không / ăn ngon lành những lễ vật / ăn cả chiếc lưỡi nhọn hoắt “


Ẩn dụ cái lưỡi là ẩn dụ có gốc từ kinh thánh. Cái lưỡi nhọn hoắt đó gây ra binh đao, tru lên như sói, gào thét như bão biển, gây ra những điều độc ác, mà cô đã ăn luôn cái lưỡi nhọn hoắt đó. Như ẩn dụ trong kinh thánh, người chủ đã ăn cái lưỡi tốt rồi ăn cái lưỡi xấu khi anh đầy tớ đi chợ mua về. Ở đây, cô ấy chỉ ăn cái lưỡi xấu, lưỡi ác, trên đường về địa ngục. Hình ảnh ăn nuốt cái lưỡi không có nguồn gốc từ đâu đến, khiến cho chúng ta có thể tưởng tượng cô ta tự nhai, tự nuốt cái lưỡi của mình. Không kinh rợn sao?  

Ngụ ý của tác giả  cho thấy cô ta quyết liệt không tuân theo số mạng, nỗ lực hóa bản năng thành hư không, thà xuống địa ngục hơn lên thiên đàng.

3. Tự thán: Tôi phanh thây tôi.  

Nhân vật tôi là người có tâm lý thất thế trong một số sinh diện của cuộc đời. Chúng ta nhìn thấy hầu hết hình ảnh, tứ và ý thơ trong Một Đoạn Nhã Ca bày tỏ gay gắt những bất mãn, thách thức, chống chọi, không nhường nhịn. Cô muốn tự phanh thây cho mọi người thấy rõ thực hư, thiện ác, xấu tốt, trái thơm, chồi sâu. Thơ của cô có tiếng hát đồng tâm với chửi thề. Tim của cô có họa mi ủ ê với cóc. Nhìn chung, đó là tâm lý của người tự biết mình thua cuộc mà vẫn chiến đấu tới cùng bằng bản sắc phụ nữ.  

“Tôi phanh thây tôi cho mọi người nhìn / nhìn tôi và phán đoán / trong vườn cây tôi có lá xanh có trái thơm / và cũng có chồi hư / hoa quỳnh vất vưởng bên hoa hồng dại / cỏ tóc tiên mọc lẫn cùng cỏ tranh / trong huyết đỏ luân lưu có huyết bầm khổ ải / trong tiếng hát ca có tiếng chửi rủa thề nguyền / chim họa mi đậu trên cành cao / nào ngờ dưới cỏ tranh cóc đang rên siết / tôi mở rộng cửa vườn rồi / mời mọi người vào xem “

Chúng ta sẽ quan tâm hơn khi đọc đoạn thơ sắp tới.  Lúc này, cô ấy mới tỏ lộ đôi điều thầm kín, ẩn trong lời lẽ bi quan. “Chồi chân thực sẽ mọc đời đời / nhưng lưỡi gian dối cũng sẽ đâm chồi mãi / còn ân nghĩa là sương móc gieo xuống cánh đồng / mà mạ lúa xanh là lương nhơn tôi”
Cô ta cho rằng những gì cô thất bại sau khi chống đối sẽ là những gì tồn tại cho chính đáng mai sau. Lương tâm tốt hay xấu? Không ai có thể biết ngoài trừ chủ nhân của nó, người thường trông cậy nó một cách chủ quan. Lương tâm là kết quả của trải nghiệm quá trình sống pha trộn đạo đức răn dạy và thực hành, không thể đo lường mà chỉ có thể tin tưởng hoặc bám víu. Vì vậy, vịn vào lương tâm là nhìn theo ánh sáng của đèn pin trong đêm, không phải theo ánh nắng mặt trời.

“hỡi những quỷ dữ bám vào khoái lạc chàng / khoái lạc chàng đâu phải là đường về địa ngục / mà tôi tìm đến “

3 câu thơ này cho thấy cô bị dằn vặt bởi ghen ghét những phụ nữ khác đang tấn công chàng. Nếu khoái lạc chàng không là đường về địa ngục, thì phải chăng là đường lên trời hay tới chốn nhân gian mà cô tìm đến? Có điều gì mâu thuẫn với hai câu thơ trước: “còn tôi, tôi xin về địa ngục / vì chính tình nhân tôi là địa ngục”  Điểm khó hiểu này có thể giải thích, tác giả đã đưa ra một biểu tượng tương tựa mà ý nghĩa đối nghịch, dẫn đến sự thiếu nhất quán.  

“Lòng ngu muội xui tôi tối tăm / ái tình giúp tôi chớp sáng / thai nhi giúp tôi phục hồi lương tâm / tôi mở lớn cửa vườn để mọi người vào nhìn / nhưng có nhìn xin đừng hái / lá hồn tôi đã chín vàng / sắp về đến cội

Những câu thơ kết này là lời tự thán trong nỗi tự hào. Cô ấy không còn tối tăm, phục hồi lương tâm, tự tin mở cửa vườn tôi cho mọi người thăm viếng. Cuối cùng, cô ấy đã bước ra ánh sáng với lương thiện, cho dù là hư cấu, vẫn thể hiện lòng ao ước tốt đẹp, dù chỉ là một đoạn đời, vẫn có thể là dự phóng cho những đoạn mai sau.

Bài thơ này có hậu. Ý thơ đi từ dày vò nội tâm, thân phận, bộc lộ ra những ý nghĩ tranh đấu cho bản thân và quyền phụ nữ, rồi chọn một kết thúc trong sáng.

Điểm Yếu của Một Đoạn Nhã Ca.

Điểu yếu của bài thơ này là sự lập lại tạo ra dài dòng. Có lẽ hầu hết những bài thơ dài và trường ca thường xuyên vấp vào hai điểm trên.

Khi một bài thơ được sáng tác qua biểu hiện và biểu tượng bằng cảm giác và cảm xúc thường đòi hỏi một cấu trúc chặt chẽ để tránh sự thiếu nhất quán và lê thê. Hầu hết tác giả thường xuyên cảm thấy chưa diễn đạt hết cảm giác và cảm xúc của mình về chủ đề, quan điểm hoặc thông điệp, vì vậy, họ nỗ lực sử dụng nhiều hình ảnh, những tứ thơ khác nhau để mô tả về cùng một ý. Hoặc trong lúc sáng tác, cảm giác và cảm xúc tạo ra hình ảnh ngôn ngữ một cách mãnh liệt, bài thơ chỉ chấm dứt khi năng lượng nội tâm cạn kiệt. Khi kiểm soát và tái kiểm tra bài thơ, nhiều khi tác giả tiếc chữ nghĩa con cái của mình, không đành cắt bỏ. Bạn có biết trong một bữa tiệc gồm có tám món dọn lên, chỉ cần có ba món dở là bữa tiệc không thành công, khách tham dự trở về xầm xì. Nhưng chỉ cần bỏ ba món dở, dọn lên năm món ngon, có nhiều khả năng khách ăn sẽ khen ngợi. Thơ là thực phẩm tinh thần và kiểm tra (edit) là nghệ thuật chọn lựa thực phẩm nào để dọn lên theo thứ tự món trước món sau, món nào chủ lực và món nào để ghi nhớ lúc khách đọc ra về.
Món để tiễn độc giả ra về:

“Hỡi những kẻ ác, những quỷ dữ cùng những điều gian dối
đang vây hãm hạnh phúc tôi
chào vĩnh biệt nhé”

Tác giả dứt khoát chia lìa với những ai, những gì gây tổn thương cho hạnh phúc của bà. Sự dứt khoát này cho thấy tác giả đã tìm thấy con đường riêng đi qua đời sống hoặc chấp nhận một lối sống bất cần sự thỏa thuận bởi thế tục.

Câu “Chào vĩnh biệt nhé” nghe ra có vẻ khách sáo, không ăn khớp với những lời lẽ dữ dằn trong bài thơ. Có lẽ nếu bỏ chữ “nhé’, câu thơ sẽ mạnh bạo và dứt khoát, “chào vĩnh biệt”, thậm chí, chỉ cần hai chữ “vĩnh biệt” là đủ.

Nhận xét cuối.

“Một Đoạn Nhã Ca” là một đoạn lời tự sự, tự thú và tự thán của một người nữ bị tổn thương bởi quyền lực bất công trong một quốc gia nhược tiểu. Một đoạn lời chỉ trích, ẩn ý một cách trực tiếp, gay cấn, thách đố bạo lực nhân tạo và cả siêu hình. Đồng thời cô ấy chống đối quyền gia trưởng mặc dù nơi ấy là nơi cô thắm thiết yêu đương. Tứ nghĩa này khiến cho cô trở thành hình ảnh chung cho phái nữ phản đối quyền nam trưởng.

Vào thời khoảng 1972, hơn nữa là ở Việt Nam, bài thơ trực tiếp bày tỏ tình dục nữ và quyền tự chủ thân xác đàn bà, phán xét đạo đức, lên án xã hội, xác nhận là một bài thơ cấp tiến hàng đầu.

Chúng ta đều biết lời thơ luôn mang theo nồng độ mạnh và cường độ cao hơn trung thực với cảm nhận; thơ luôn diễn quá lời hơn ý, đôi khi vì thẩm mỹ mà làm mờ nghĩa chữ; tứ thơ thường xuyên vẽ vời vì hư cấu, những điều này khiến cho người đọc nghiêm túc cảm thấy không thật. Đúng ra, thật hay không chưa hẳn là nhiệm vụ của thơ. Năng lượng chính của thơ là làm đẹp cuộc sống và sự tồn tại của con người. Hơn nữa vẻ đẹp của cảm xúc có một số khác biệt với chất đẹp của lý trí.

Thơ của “Một Đoạn Nhã Ca” thật hay không, chưa phải là câu hỏi cần thiết. Vậy thì bạn đọc cảm nhận được bao nhiêu mức độ trung thực trong bài thơ?
Không có bài thơ nào có thể hoàn toàn thoát khỏi những điểm yếu, nhưng điểm mạnh của bài thơ qua văn phong thách thức và nội tâm táo bạo đã làm lu mờ sự lập lại và dài dòng. Sự tham vọng của tác giả mang lại cho tác phẩm một sức mạnh đáng nhớ. Tôi cho rằng, giá trị của bài thơ này là tác giả tự thức đã nói ra được một số thao thức và mong muốn của phụ nữ Việt trong các thế hệ trước và sau. Cách truyền đạt và giọng điệu nói của bà gây sốc mà vẫn giữ được phong thái đẹp của thơ.                                       
 
Nguyên tác:
Một Đoạn Nhã Ca
(1972)
 
Hỡi các địa cầu
các tinh tú và những thế giới ngoài hư không
đang rao truyền sự vinh hiển của hạnh phúc
tôi tìm tới
ngày hãy giảng nghĩa cho đêm
ánh sáng rù rì cho bóng tối
và ca tụng
tôi có người nữ
đứng trong vườn tôi nóng bỏng lửa
 
Tôi có ngọn lửa xanh của nhơn từ
cả ngọn lửa đỏ của gian ngoa tàn sát
tôi nguyện sự tối tăm mù mịt
bế lòng hoài thai
tôi nguyện sự mù lòa suốt đời trong ái tình
và những tiếng thở than
như thác đổ trên ghềnh ngày đêm không ngớt
rên siết, rên siết mãi
trong cổ họng trên thân xác
với linh hồn đầy bụi
 
Bụi là xác thân nhưng tù đầy thanh tịnh
dẫu tôi quạnh hiu như loài hươu trên núi cao
như con tê giác nhẵn sừng hùng hổ
hay con chim sẻ trốn trên mái nàng
tôi cũng luôn luôn nở hoa huyên náo
trong tình nhân, trong ái tình tôi
đỏ rực
 
Dẫu tôi sức yếu mỏng hao mòn vì buồn rầu
dẫu sự ô nhục bắt đầu vào lẩn trốn trong tôi
tôi bị quên đi như kẻ chết
múa may không ai nhìn
than khóc không ai biết
 
Tôi sẽ có trong lòng đầy giặc giã
trận giặc âm thầm
mà thanh bình là cái bóng ở xa
vì mọi phía luôn luôn có sự kinh khủng
tình nhân tôi đâu sợ gì cô đơn trên núi cao
mà vườn tôi cỏ hoa không mọc tới
bụi tro sẽ muôn đời ngợi khen
người yêu tôi
những hòn đá kỳ mạng trong tay hạnh phúc
 
Tôi đâu có đôi chân dài như ngựa
để băng qua nỗi buồn phiền
đạp trên nỗi đau đớn
thân phận tôi dòng nước luân lưu
từ chiếc xương sườn của chàng
ngày đêm hèn mọn
và thế gian trầm luân cơn đau đẻ thường xuyên
 
Hỡi những gian dối và kẻ ác
không ngừng vây hãm hạnh phúc tôi
những kẻ lòng dạ yêu tinh mang bộ mặt đẹp đẽ ngoài đời
sá gì một giọt máu dơ
tôi không đủ sức chảy
sá gì một giọt máu thừa
tôi không đủ sức cho
nơi tình nhân tôi
mặt trời đã rọi bao nhiêu bụi bặm
bao nhiêu ngày tháng tàn sát
cày sâu kiêu hãnh
chỉ còn lại lương duyên tôi và thai nhi
cao chót vót
 
Địa ngục sinh tử trong lòng ngươi
tôi mang tôi nạp mình
cần chi suy nghĩ
Đêm tối cần chi mặt trời
tôi nhìn thấy tình nhân, thấy vườn tôi bát ngát
 
Hỡi những kẻ mang bụng dạ mình đi bán buôn
mang lương tâm mình vẽ vời cho những lý do
mang bộ mặt của mình lừa dối đạo đức
hãy lấp đầy dục vọng nơi tình nhân tôi
cùng bóng tối của bất nhơn
rồi cứ lên thiên đàng mà ca hát
còn tôi, tôi xin về địa ngục
vì chính tình nhân tôi là địa ngục
tôi sẽ sinh thêm huyết dơ
và tiếp tục chảy
 
Tôi không đẹp đẽ gì
lòng tôi nuôi từ địa ngục
ái tình tôi nuôi bằng huyết đỏ xương khô
bởi thế loài người đã cho tôi đủ ngày đêm tai họa
hạnh phúc chọn tôi để phán đoán
hạnh phúc chọn tôi để trả thù
hạnh phúc nuốt tội ác ngon lành khác nào ăn chiếc bánh kem
còn tội ác cứ ngọt ngào trơn lu chói sáng
 
Hãy nhìn coi
đời sống có gươm đao
và chiếc lưỡi nhọn hoắt
hạnh phúc đôi khi tru điên như chó sói
lương tri tôi đôi khi gào thét như bão biển
như sự tối tăm muôn trùng
nhưng cũng sá gì những điều độc ác
trước khi về địa ngục
tôi cũng từng hóa làm hư không
ăn ngon lành những lễ vật
ăn cả chiếc lưỡi nhọn hoắt
 
Tôi phanh thây tôi cho mọi người nhìn
nhìn tôi và phán đoán
trong vườn cây tôi có lá xanh có trái thơm
và cũng có chồi hư
hoa quỳnh vất vưởng bên hoa hồng dại
cỏ tóc tiên mọc lẫn cùng cỏ tranh
trong huyết đỏ luân lưu có huyết bầm khổ ải
trong tiếng hát ca có tiếng chửi rủa thề nguyền
chim họa mi đậu trên cành cao
nào ngờ dưới cỏ tranh cóc đang rên siết
tôi mở rộng cửa vườn rồi
mời mọi người vào xem
 
Chồi chân thực sẽ mọc đời đời
nhưng lưỡi gian dối cũng sẽ đâm chồi mãi
còn ân nghĩa là sương móc gieo xuống cánh đồng
mà mạ lúa xanh là lương nhơn tôi
hỡi những quỷ dữ bám vào khoái lạc chàng
khoái lạc chàng đâu phải là đường về địa ngục
mà tôi tìm đến
 
Lòng ngu muội xui tôi tối tăm
ái tình giúp tôi chớp sáng
thai nhi giúp tôi phục hồi lương tâm
tôi mở lớn cửa vườn để mọi người vào nhìn
nhưng có nhìn xin đừng hái
lá hồn tôi đã chín vàng
sắp về đến cội
 
Hỡi những kẻ ác, những quỷ dữ cùng những điều gian dối
đang vây hãm hạnh phúc tôi
chào vĩnh biệt nhé
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Nếu phải tóm tắt các tác phẩm lớn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), có thể nói rằng ông đã phản ánh nỗi lòng của người trí thức Việt Nam cùng thế hệ, là những người bước vào tuổi 20 trong thời kháng chiến, chứng kiến sự đảo lộn của xã hội. Họ đã có thể có những phản ứng, hành động trước thời cuộc đó, nhưng phần nào bất lực không ngăn chặn được những xáo trộn xảy ra chung quanh. Truyện dài Dòng Sông Định Mệnh (1959) là một tác phẩm như thế. Ở mặt nổi, đó là một chuyện tình lãng mạn, hai người trẻ, một dòng sông. Nhưng sâu hơn, đó là bi kịch của những con người bị cắt đôi giữa lý tưởng và sự thật phũ phàng. Ở phương diện đó, Dòng Sông Định Mệnh có những chi tiết, những nhân vật hình mẫu sẽ trở lại trong bộ tiểu thuyết Khu Rừng Lau, nhất là tập Ba Sinh Hương Lửa (1962), mà ông sẽ viết sau này.
Krasznahorkai, trong các tiểu thuyết như Melancholy of Resistance hay Baron Wenckheim’s Homecoming, viết như người vừa chứng kiến ngày tận thế và vẫn phải tiếp tục kể, dù biết không còn có người nghe. Văn chương ấy, như James Wood nói, “vừa tuyệt vọng vừa kiêu hãnh, như một bản cầu siêu cho nhân loại.”
Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vừa từ trần vào lúc 10 giờ sáng ngày 14/10/2025 tại bệnh viện ở Nam California hưởng thọ 102 tuổi . Ông sanh năm Quí Hợi 1923 nên tính theo tuổi ta, ông thượng thọ 103 tuổi. Nhân đây, tưởng nhớ ông nên đắng lại bài viết Tác Phẩm Khu Rừng Lau Của Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vào ngày 5/11/2025
László Krasznahorkai – nhà văn Hungary vừa được trao giải Nobel văn chương – nổi tiếng với những câu văn dài như một hơi thở kìm nén, nơi ý tưởng đi qua địa ngục mà vẫn giữ vẻ điềm tĩnh của thiên thần. Một thiên thần lướt trên chúng ta là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách ấy: giữa bùn lầy chiến hào và tiếng pháo rít xé trên đầu, một người lính cụt chân, mắt mờ, lại giảng về văn minh số, về văn hóa như bản năng sinh tồn của loài người. Chiến tranh vẫn gầm thét, nhưng lời anh vẫn tuôn, dài, sáng, và lạ thay – đầy hy vọng. Bản Việt ngữ của Ngu Yên dịch từ bản Anh ngữ của John Batki, giữ nguyên nhịp câu, những đoạn văn dài như dòng suy tưởng không dứt.
Khoảng hai giờ trước khi Mats Malm, vị thư ký trầm tĩnh của Viện Hàn Lâm Thụy Điển, bước ra, thế giới vừa nghe tin: Israel và Hamas ký hiệp định hòa bình. Một mẩu tin nhỏ, nhưng làm cả hành tinh thở nhẹ. Có lẽ, nếu tinh ý, người ta đã thấy khóe miệng vị diễn giả ấy nhích lên một nụ cười như thể dành riêng cho nhân loại, sau khi đã hứng chịu quá nhiều tuyệt vọng. Và rồi, cái tên được xướng lên: László Krasznahorkai, nhà văn Hungary – kẻ viết những câu văn dài như cơn hấp hối, nhưng mỗi chữ lại sáng rực như ngọn đèn dầu giữa đêm mất điện. Một bất ngờ… mà thật ra chẳng mấy ai bất ngờ. Viện Hàn lâm Thụy Điển, như thường lệ, lại khiến người ta ngạc nhiên bằng cách không hề ngạc nhiên.
Phân lý chữ nghĩa Bùi Giáng là việc làm nghiêm túc một cách khôi hài. Phê bình thơ Bùi Giáng là khôi hài một cách nghiêm túc. Tôi chú ý đến hai đối cực hài hòa này vì càng suy nghĩ, càng lý luận, thì càng cảm nhận chất khôi hài trong thơ Bùi Giáng là một đặc sản. Thưởng thức thơ Bùi Giáng, trước hết là thú vị với cách thế đùa nghịch chữ nghĩa và tứ thơ của ông, tiếp theo là những ngạc nhiên về chất lượng ngộ nghĩnh và biến hóa trong ý nghĩ, tư tưởng của Bùi Giáng một cách sâu sắc và sự sâu sắc này mang đến lòng ngưỡng mộ, vì sự sâu sắc này mà chúng ta cần phải nghiêm túc.Trước Bùi Giáng có rất nhiều nhà thơ làm thơ hài hước nổi danh như Tú Xương, và các ông tú sau này. Hầu hết các nhà thơ thành danh đều có thơ hài hước, như Nguyễn Khuyến, Tản Đà, vân vân. Tuy nhiên, gần như những hài hước đó luôn kèm theo sự mỉa mai, nụ cười xách mé, mỉm cười khinh bỉ, nín cười che miệng, cười lớn chế nhạo. Trong khi chất khôi hài của Bùi Giáng qua thơ chỉ tạo ra nụ cười hoặc tức cười.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.