
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)
Tác phẩm thời hải ngoại: Hoa Phượng Đừng Đỏ Nữa (1989); Sài Gòn Cười Một Mình (Thương Yêu, 1990); Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng (Thương Yêu, 1990); Chớp Mắt Một Thời (1992); Đường Tự Do Sài Gòn (Westminster CA: Việt Báo, 2006), O Xưa (2023),…
Giải Khăn Sô Cho Huế của Nhã Ca được tái bản và Olga Dror dịch ra Anh ngữ (Mourning Headband for Hue: An Account of the Battle for Hue, Vietnam 1968; Indiana University Press, 2014); James Banerian dịch Đêm Nghe Tiếng Đại Bác (At night I hear the cannons, DGXB, 1993) và Liễu Trương dịch ra Pháp ngữ Les canons tonnent la nuit (Paris: Philippe Picquier, 1997).
*
Trước hết, về sáng tác, Nhã Ca có các truyện dài Hoa Phượng Đừng Đỏ Nữa, Đường Tự Do Sài Gòn và hai tập truyện Sài Gòn Cười Một Mình và O Xưa, là những tác phẩm dùng khung cảnh của Sài Gòn và miền Nam sau ngày 30-4-1975 - chân dung xã hội mới với nhiều ấm ức khôn nguôi và cảnh đời ngang trái.
Hoa Phượng Đừng Đỏ Nữa, tác phẩm đầu được sáng tác tại Thuỵ Điển, là truyện trong không gian học đường – nhiều dấu chỉ là trung học Trưng Vương. Không khí “giải phóng” đã xuất hiện ngay ở đầu truyện: “Từ dạo đổi đời, bao nhiêu là chuyện. Vậy mà chuyện gì cũng vẫn làm người ta ngạc nhiên. Xe la vi. Đúng boong kiểu con Trang thường lên giọng triết lý đầu đường. Cuộc đời, tài thiệt.
Như chuyện cô hiệu trưởng, cũng vẫn chỉ là cô giáo Tú, dạy văn từ hồi chế độ cũ. Cách mạng ít lâu, cô lên chức cái vù. Hiệu trưởng một sớm một chiều vậy, ai mà không nghĩ cô phải có dây mơ rễ má ghê gớm với chế độ. Ngồi vững một lèo ba năm liền, hẳn phải gốc bự. Không gốc bự, phải công cán to, còn không, là nằm vùng. Ngay trong xóm Huyền ở, những ngày đầu, có thiếu gì "truyện dài nằm vùng".
Bà Béo cháo lòng đó kìa. Mấy mẹ con bà có cái xạp gỗ, choán ngay đầu hẻm, ngay cánh trái quán cà phê dì Hai. Chiến tranh qua lại giữa bà Béo cháo lòng với dì Hai cà phê, khi âm ỉ du kích chiến, lúc sôi sục pháo kích oanh tạc. Dai dẳng chẳng thua gì chiến tranh Việt Nam.
Đùng một cái, chiều 30 tháng Tư, bà Béo cháo lòng phây phây đi cùng khắp xóm, dõng dạc kêu gọi bà con treo cờ đỏ sao vàng. Lấy đâu ra cờ? Lo gì, có tổ chức sắn.
Nhà bà Béo, nhỏ bằng lỗ mũi, sâu trong một ngách nhỏ, lập tức thành cửa hàng cờ đỏ sao vàng phục vụ bà con. Khách hàng đầu tiên là mấy mẹ con dì Hai cà phê. Trên giường, trên bàn, dưới nền xi măng, trùm cả lên mấy bãi nước đái của đàn cháu ngoại, toàn vải vàng vải đỏ. Chị Thúy chen lem cả áo, mới mua được về cho mẹ cái cờ. Chị bảo Huyền:
- Tội nghiệp. Nhà mụ Béo cờ quạt đỏ rực, mà mặt dì Hai cà phê thì xanh như tàu lá. Dì rối rít mua lấy mua để ba bốn cái cờ, chẳng biết để làm gì. Đưa ra cả ghim giấy một ngàn, không dám lấy lại cả tiền thối.
Chưa ai hiểu cuộc "chiến tranh cháo lòng - cà phê" sẽ kết thúc kiểu nào…” (tr. 9-10)
Học sinh được cô giáo như cô Tú “lên lớp”: “Các em phải theo gương chị Nhàn. Các em biết chị Nhàn cả rồi chứ gì. Chị là điển hình tiên tiến cho lớp trẻ giác ngộ cách mạng. Cha mẹ chị là thành phần tư sản. Chị đã động viên cha mẹ nhiều lần, không nên tiếc rẻ thứ của cải bất nghĩa phải, giao nộp hết cho nhà nước. Cha mẹ chị ngoan cố không nghe, lại còn có lời lẽ phản động hai uy tín cách mạng. Không thuyết phục được, chị Nhàn vẫn không nản chí. Chị đã lên đài truyền hình, tố cáo hành động sai trái của bố mẹ, nêu gương sáng cho tuổi trẻ thành phố. Chị đã được đề cao, được khen thưởng, được kết nạp vào đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Chị đang phấn đấu để được kết nạp Đảng. Tương lai chị vô cùng rực rỡ.
Cô hiệu trưởng chỉ thuyết giảng đến đó thì ngừng. Còn cái đuôi bê bết đằng sau, dành cho tin đồn ngoài phố. Hai ông bà già nghe đâu đã tự tử chết. Nhà cửa, tài sản thì dĩ nhiên nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý. Tương lai chị Nhàn tha hồ mà rực rỡ.
Vậy đó, cả trường điếc con ráy vì thành tích cổ động, tuyên truyền của cô hiệu trưởng. Nào các nam nữ thanh niên trong cụm kiểm kê phường 9 đã phát hiện ở nhà ông năm Triệu, một tên tư sản thợ may, hai hộp bích qui toàn là vàng lá hiệu Kim Thành. Nhà "mụ" tư sản buôn bán đồ kim hoàn ở phường mười còn kinh khủng hơn. Bao nhiêu xương máu nhân dân đã bị dồn hết vào hai lon guy gô, đầy nhóc kim cương hột xoàn. Mấy chậu kiểng thì chôn toàn là vàng. Chưa ghê bằng, có tên tư sản còn dấu của ngay trong hốc cầu tiêu. Vậy mà vẫn bị tai mắt nhân dân phát giác.
Còn cả trăm cách dấu tiền, chôn vàng của bọn tư sản khác nữa. Nhưng làm sao qua mặt nhân dân lao động nổi. Có "Đảng tiên phong" lãnh đạo, nhân dân lao động anh hùng đã trở thành vô địch, đang chiến thắng bọn tư sản, giúp nhà nước thu hồi bao nhiêu của cải bất nghĩa…” (tr. 12-13)
Thầy cô thì tranh nhau tem phiếu, học trò như Ngọc bất tuân kỹ luật - do gia đình có công hoặc đang nắm chóp bu: “Ngọc vẫn phải lên lớp. Chuyện dễ hiểu quá, mỗi kỳ được mua thực phẩm hay đồ tiêu dùng, như tiêu chuẩn hai thầy giáo, ba cô giáo được mua chung một cái mùng, thì cô hiệu trưởng được phiếu mua riêng một cái.
Tụi học trò kháo nhau chuyện các thầy cô được cấp phiếu mua, như chuyện dài hài hước, và cười quên thôi.
- Cô giáo Năm với thầy Bân, thầy Tám được phiếu mua hai cái quần xà lỏn.
- Thì họ chia phiên nhau, cứ một cái mỗi người mặc một ngày.
- Vậy sao? Còn thầy Mẫn, cô Hạnh, cô Xuyến được chung một phiếu, một cái mùng.
- Không được mua chăn đắp?
- Chỉ mùng thôi.
- Phẻ rồi, thầy Mẫn nằm giữa, khỏi cần chăn đắp.
- Tháng rồi, cô Năm với thầy Mẫn đổi nhau mấy thước vải, tụi bây biết không?
- Sao phải đổi?
- Tao nghe cô Năm nói cổ được phiếu mua vải may quần, trong phiếu đề được hai thước, khổ tám tấc. Đến khi tới cửa hàng, được bán cho một thước màu vàng, một thước màu đỏ. Cần quần đi dạy, cô đâu dám may, may một ống đỏ, một ống vàng là đi tù như chơi.
- Tao hiểu rồi, vải may cờ còn lại khúc, cửa hàng đem bán cho cán bộ công nhân viên.
Kim Trang phê:
- Tao như cô Năm, tao may mặc tới hạt sen hết, việc gì mà đổi. Tại cửa hàng bán như thế thì may như thế.
- Con Trang, mày đúng là thầy chạy, bác sĩ chê. Dám đem vải cờ may quần không? Ở tù mút mùa lệ thủy nghe con.
Con Trang nói bậy thêm:
- Hèn chi, mấy hôm nay thấy mặt thầy Mẫn phởn phê. Ba người mua được cái mùng, thầy Mẫn nằm giữa sướng rên!
Trang nói đủ giọng lề đường, riết rồi cả bọn nghe cũng quen. Như mới đây, trong giờ ra chơi, thấy cô hiệu trưởng đi qua, Trang hát ư ử trong miệng:
... Cô Tú ơi
Từ nay thôi hết ra oai
Từ nay thôi mất cái đuôi...” (tr. 23-24)
Cứ thế, suốt truyện, khuôn mặt học đường và cuộc sống xã hội sau cuộc “đổi đời” được các học sinh, thầy cô “cách mạng” - cả xã hội chung quanh, tỉ mỉ hoặc tình cờ “vạch mặt”, trình bày cho độc giả thấy hết những mặt trái của kẻ cầm quyền, từ cán bộ đến bác sĩ,… Toàn là tuyên truyền, huyền thoại khi đụng phải thực tế.
Đường Tự Do Sài-Gòn truyện dài phác họa lại cuộc sống ở đó sau năm 1975. Con đường “Một đầu, dòng sông Sài Gòn lấp lánh. Một đầu khác, tượng Đức Mẹ trắng toát trước Vương Cung Thánh Đường. Lòng đường hẹp mà vỉa hè rộng. Con đường ấy, một thời ngắn ngủi thôi, mang tên là Tự Do. Tên cũ của nó, thời Pháp: Catinat. Tên mới, thời Cộng Sản: Đồng Khởi. Không biết đã hoặc sẽ còn những tên nào khác nữa? Với tôi, mãi mãi, con đường ấy mang tên là Tự Do…”.
Con đường đô hội, lịch lãm của thủ đô đã phải chứng kiến những đổi thay triệt để “sau khi Sài Gòn đã thay tên đổi đời…”. Những Long Tân Định, “anh” Hai Thạnh, thằng Bò, thằng Giàu, thằng Lai, thằng Hôi, con Nết, con Lê, con Lựu, con Quê, con Quynh, con Đuông, tên Bảnh, … Những bà Ngọc Hoa, Tuyết Chà, chị Bảy Cà Tong, cô Tuyết, … Mỗi người một hoàn cảnh nhưng xoay sở mọi cách để sống còn, để có ăn qua ngày hoặc cả ăn chơi trác táng không cần ngày mai. Chung quanh khu khách sạn Cửu Long và các nhà hàng Givral, Hương Lan, …,
“Ông chủ thiếu tá Việt Cọng, đeo lon, quân hàm đầy cầu vai. Chưa thấm gì với bà chủ Ngọc Hoa, không phải một gốc bự mà dây mơ rễ mái ba bốn gốc. Này nhé, nghe nói cha ruột là một anh hùng liệt sĩ Cách Mạng. Ông bố liệt rồi mà bà mẹ chưa liệt nên tấp vào một ông Bự khác, ông này tướng tư lệnh vùng, hét ra lửa. Hồi bà chủ còn nhỏ, vì con anh hùng liệt sĩ nên được bác Duẫn nhận làm con nuôi. Cách Mạng vô, chiếm ngay một căn phố mặt tiền đường Tự Do. Trong khi các căn khác bày bán lai rai sinh tố, giải khát với bàn ghế xập xệ, thì căn phố này là một tiệm cà phê ca nhạc rất ăn khách. Ông chủ làm ăn lớn nên khách sộp lui tới đông như kiến.
“… Thình lình, quán cà phê “Bạch Ngọc” tái khai trương. Tài xế kiêm “thằng ở” tên Bảnh trở thành ông chủ. Ngày khai trương nhốn nháo cả con đường Tự Do. Chẳng phải vì phong pháo nổ đinh tai nhức óc, cũng chẳng phải vì khách đến mừng “tân quán” đủ cỡ tai to mặt bự, hay mấy em tươi như hoa phục vụ đâu. Vì anh “tài xế” Bảnh đấy. Quá khứ tài xế kiêm “thằng ở” được tẩy sạch như lau như li. Anh Bảnh diện com-lê trắng, cổ đeo nơ. Bộ râu quai nón của anh được cắt xén tỉ mỉ nên nhiều người nhận không ra, chào xáo…”.
Ông “cách mạng” trở về, được hai cô con báo chuyện tằng tẹo của bà vợ, “Ông ôm đứa con gái nhỏ nghẹn ngào. Không lý rơi nước mắt trong quán ăn. Không được, phải bình tỉnh thu xếp. Ông vẫn là một thượng úy trong quân đội. Đã nằm gai nếm mật, bao phen tưởng phơi thây trên trường sơn, thì cái tên xấu xí thằng cu con cha mẹ đặt thủa xưa, đã được thay bằng tên thượng Uý Trường Sơn hùng dũng… Trong quán ông không khóc, cố dằn cơn giận, nhưng lúc này, nhìn vợ nằm dài trên giường, nghĩ thân thể người đàn bà mình thương yêu đã bị “thằng ở” làm hoen ố, máu như muốn trào ra miệng, dồn lên hai con mắt đỏ kè. Mấy lần muốn lôi con dâm phụ dần cho một trận, nhưng cái oai của ông”cha dượng” và “mẹ vợ” làm ông chùn tay… Vì con đường tiến thân mà ông đã một lần bỏ vợ con để lấy người đàn bà này…Cái đau thấm thía làm ông biết thông cảm cái đau thương của người vợ cũ khi bị ông ly dị. …. Đứa con “cách mạng” này, cơm trắng cá tươi, tiền bạc rủng rỉnh, cũng chỉ mới sửa được bộ vó bên ngoài chứ bên trong con người vẫn một khối thô kệch”…
Các phòng trà vẫn sống, những nơi mà nay nghệ thuật chỉ là cho có, “biện chứng pháp” của chủ mới biến chúng thành tạp nhạp, không cam-pu-chia thì là nhạc “cách mạng”: “Anh nhạc sĩ đang đứng trên sân khấu trong tư thế cầm và kéo đàn violon rất đẹp, càng nghệ sĩ quyến rũ hơn nhờ mái tóc bồng bềnh xõa xuống trán. Tuyết Chà đưa tay lên ra dấu, nhưng anh ta không nhìn thấy. Cô nhìn ra sàn nhảy, đang một điệu rumba, nhưng thời trang mới của “múa đôi” ở Sài gòn lúc này là dù điệu nhạc nào cũng biến thành “vũ điệu cam pu chia”, múa tay rất dẽo. Có cặp đi song song, hai tay đưa tới trước, bước lên, bước xuống, chiếm rất nhiều chỗ nên đụng tùm lum. Cái nghề “nhảy đầm” này, với cô, đã “nhuyễn” từ hồi còn con gái, nhưng chưa bao giờ cô thấy một lối nhảy đầm “kém mỹ thuật” và dị kỳ lai căng như vậy. Chiếm một góc là băng nhảy của một bà luật sư, băng này tập hợp một số vũ sư giỏi của thành phố, nên gây chú ý của mọi người. Bà luật sư tuy lớn tuổi, tóc muối tiêu nhưng được các vũ sư huấn luyện rất kỹ, nên dù vóc dáng mập, thấp, những bước chân của bà rất nhẹ và điêu luyện. Coi bà ta “te”, nhảy phóc lên đùi vũ sư và ngã người ra, rồi lại búng mình trở lại, bước vào nhịp rất vững. Một tràng pháo tay, chắc chắn là tán thưởng bà. Tuyết Chà chẳng lạ gì bà này, trước khi “bắt” được anh chàng nhạc sĩ “nhí”, Tuyết Chà vẫn thường đi với ngoại quốc tới quán bà luật sư ăn cơm tây. Quán này chặt đẹp lắm, thảo nào bà luật sư đủ mục ăn chơi và vung tiền như nước.
Đây là vũ trường đầu tiên của thành phố mới được phép mở cho giới có tiền, sau vũ trường Rex chỉ dành cho ngoại quốc, nên không “chợ đen” không có vé, vậy mà bà luật sư lúc nào cũng kéo cả “dàn đèn” đông đúc, và mỗi tuần có hai này đêm thứ Bảy, chủ Nhật, bà đều bao tuốt mới dễ nể…”.
Những cuộc đời sa xuống đáy địa ngục, như Nhung Xì ke: “Ngày ấy, Nhung Xì ke mười sáu. Giải phóng Sài gòn, cha đi học tập, mấy mẹ con bị đẩy lên kinh tế mới. Đàn em chống không nổi đói và sốt rét rừng, tử thần rước hết. Mẹ Nhung lúc đó bệnh thập tử nhất sinh, cũng cố gượng băng rừng đưa Nhung ra đường lộ, để mong con có con đường sống. Lúc Nhung được một tài xế cho lên xe, mẹ Nhung không trở về vùng kinh tế nữa. Sức bà đã cạn. Không biết sau đó ra sao…Nhung chỉ nhớ có một câu của mẹ trối trăn: “Về dưới kiếm tiền đi thăm nuôi ba. Ba ở tù cực lắm.” Lúc ngồi trên xe chạy về thành phố, ruột gan đau đớn đứt bung hết trơn, nhưng cô không có một giọt nước mắt nào. Cô đã khóc cạn lệ khi chôn mấy đứa em ở vùng kinh tế mới. Về thành phố, đủ nghề. Đi ăn xin, giựt đồ, ăn cắp, rồi làm gái…Để dành tiền lên trại học tập cải tạo thăm cha. Người ta chỉ cho cô một nấm đất cắm một cây gỗ ghi tên tuổi người chết. Không có một nén hương. Cũng không hề khóc, cô cào cào nấm đất, mặt thất thần. Vậy là không còn ai. Vậy là mồ côi rồi! Mẹ chết còn trối trăn ráng đi thăm ba. Ba chết,không trối trăn gì hết! Không nói gì nữa hết thì thôi. Cô đi. Bắt đầu là rượu. Nhung xì ke dám uống thi với cả một bọn đàn ông, dù cho gặp nhau lần đầu trong một cái quán cóc. Cứ ba búa, liều lĩnh, bất cần đời, bất cần tấm thân. Thân giữ gìn cho ai đây?...”
Một hoạt cảnh khác: “… Cũng chả ai để ý một thằng tàn tật bò trên đường Tự Do mà không có quần mặc, ngoại trừ mấy người ngoại quốc. Thấy con Quê vác cái bụng chành ành vừa đi vừa khóc, còn thằng Bò thì thiểu não bò theo sát chân, chổng cái mông teo tóp không che đậy. Một vài cái nhíu mày. Một vài người ngập ngừng muốn cho tiền nhưng thấy công an đi sát chúng, ngần ngại, thôi. Tên công an khu vực phường tám, vừa theo vừa tra hỏi con Quê:
“Bọn bây mới làm mất trật tự ở đâu vậy hả? Tao sẽ cho xúc tụi mày đi kinh tế mới.”
Con Quê không vừa: “Ở đây hổng phải thuộc phường của ông à nhe. Đây là phường 10.”
“Mày ở công viên thuộc phường tám. Tao có quyền cho hốt mày, biết chưa?”
“Xời ơi, khỏi sợ đi. Đừng có dọa. Tui trên răng dưới có…làm gì được. Khi nào hốt hết dân bụi mới tới lượt tui. Cùi không sợ lỡ đâu…”
Chớp Mắt Một Thời (1993) về thời Việt-Nam Cộng-Hòa, chiến-tranh và liên hệ với Hoa-Kỳ kéo dài đến xứ người California. Chớp Mắt Một Thời là những hoài niệm về một miền Nam trước biến cố mất miền Nam và chân dung xã hội Cộng-sản với nhiều ấm ức khôn nguôi và cảnh đời ngang trái.
*
Về phần hồi ký, Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng (1990) của bà là những trang văn chương về một quãng đời kinh hoàng đầy bất hạnh. Nạn nhân là mọi người nhưng được thu gọn lại trong thế giới gia đình và bạn bè thân hữu văn nghệ và tai mắt xã hội. Những cái chết bi thảm, những cuộc sống vô định và những tình người chân thành, cả khi ở đáy ngục tối hoặc không còn gì!
Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng được Nguyên Sa giới thiệu: “… Giới thiệu Nhã Ca với độc giả là làm công việc đẩy ra một cánh cửa đã mở lớn. Giới thiệu Hồi Ký Nhã Ca là đẩy cánh cửa đã mở lớn hơn nữa (…). Thế giới Hồi Ký Nhã Ca, cánh cửa mở vào thế giới Việt Nam Khổ Đau, những anh em đã sống trong đó và còn sống trong đó, biết rõ một ngàn lần hơn tôi…” (Tựa).
Hồi ký gồm 4 phần, khởi đầu từ SàiGòn đêm 3-4-1976, bà bị Cộng sản bắt vào nhà tù đến ngày 10-9-1988 là trường ca đoạn trường mà tác giả và gia đình sống dưới chế độ Cộng Sản tại thủ đô của miền Nam nay đổi tên: Nhà tù nhỏ - Nhà tù lớn - Nhớ Ôn Lạy Phật - Nơi này nơi kia. Trãi qua các biến cố, thử thách, lo sợ và nhà tù nhỏ rồi thả ra nhà tù lớn, chia xa, nhưng tình gia đình và bạn hữu như có cơ hột để gắn bó, thương yêu, thông cảm nhau hơn. Rồi những cái chết bi đát, bất nhân, những cuộc sống vất vưỡng, không ngày mai, không biết khi nào thì đòn thù vun xuống. Những bạn và thù “giai đoạn”,…
Phần mở đầu, Cát Sô Số Bốn, đầy chuột hung dữ vì đói hoặc vì bản chất, mà có thể tấn công người, như quản tù/quản giáo, là nơi tác giả bị nhốt tù, cũng là nơi cha Hoàng Quỳnh chết: ““Chị Nhã, chị biết cát sô bốn chị đang ở có gì lạ không? Cha Hoàng Quỳnh chết trong đó.”
“Linh mục Quỳnh, ai vậy?”
“Chị mà không biết cha Hoàng Quỳnh? Cha chánh Xóm Mới. Trước nữa, chỉ huy chiến khu Phát Diệm ở miền Bắc.”
“Chết? Làm sao chết?”
“Già, tù. Tại cuốn Thánh Kinh nữa. Cuốn kinh nhỏ xíu à. Giấu. Giấu được. Tối nào Cha cũng đem ra đọc. Giám thị biết. Rình. Bắt. Tịch thu. Phó Phận chớ ai. Hắn giằng lấy, xô Cha té.”
“Lấy được không?”
“Được. Giập đầu.”
“Giập đầu chết à?”
“Không biết. Nhưng chết trong cát sô, ngay chỗ chị nằm đó.”
Chỗ nằm: Cái bệ xi măng đã hư bể, lồi lõm với những lỗ hổng lớn. Bệ nằm nối vào cái cầu tiêu có vòi nước. Suốt tháng mưa, nước mưa theo tường vôi loang lổ ngấm xuống. Nước hầm cầu lụt, đêm đêm sủi lên từ chỗ nằm…”
Sinh hoạt được mong đợi nhất là thăm nuôi:
“Lúc này đang là tin thăm nuôi: Cát sô 18 chắc cúp.Tới giờ không thấy giỏ. Sáu giờ chiều, mở cửa cát sô đưa giỏ thăm, Hùng reo: “Em thấy được chị rồi, chị Nhã Ca. Đâu nghĩ chị ốm vậy. Chị được nuôi có chừng đó thôi à?”
Tôi soạn giỏ thăm. Gói muối vừng, muối xả, chút cá kho, dăm cục đường, vài thứ linh tinh. Các con tôi nấu nướng bằng đồ chơi trẻ con của chúng. Giỏ thăm của anh ấy ra sao nhỉ, có khá hơn được tí nào không? Bố mẹ ăn hết phần các con rồi còn gì. Mảnh giấy kèm theo giỏ thăm. Chữ đứa con gái đầu: Mẹ ơi, mẹ ráng học tập tốt..ai dậy chúng viết thư nào cũng vậy. Chúng con gửi vào cho mẹ....tên các món. Dưới cùng có nét chữ lớn xiêu vẹo: Kẹo con gửi Mẹ…Đứa con gái áp út đang tập đọc, tập viết. Chữ nó đó. Bốn cái kẹo thảm hại, xa lạ. Kẹo Hải Phòng. Ở đâu nó có được thứ này?
“Số 4. Cơm.”
Tôi quên chờ tiếng chim kêu. Sao hôm nay không hót nữa bên tai tôi. Giọng Hải:
“Chị Vân. Hồi sáng anh Vĩnh té, bất tỉnh.”
Tôi cố nuốt nước miếng, nuốt tiếng kêu. Té làm sao? Ai xô? Ai đánh?
“Anh ấy ra lỗ cửa, luân phiên hít thở. Phòng ngộp lắm. Tự nhiên bật ngửa, mê luôn. Chắc say không khí.”
Trước khi sập kín ngăn cửa, còn thấy vẻ mặt Hải ái ngại:
“Chắc không sao đâu. Chị đừng lo.”
Suốt buổi chiều, tôi ngồi với giỏ thăm. Xếp vào. Xếp ra. Nhìn. Rờ rịt. Anh còn mê man. Anh chưa nhìn thấy món ăn con thơ này. Dọn lên. Nước mắt các con. Dọn lên. Tim gan các con. Dọn lên. Nước mắt các con, nước mắt mẹ. Bình tĩnh, tin tưởng. Tập thở cho đều. Sao anh tập thở anh té, anh mê man? Đang đứng, bật ngửa. Có vấp vào mâm cơm con thơ không. Coi chừng. Đừng té. Ngồi cho thẳng. Thật thẳng. Anh rồi cũng sẽ ngồi thẳng vậy. Tôi nằm xuống lúc nào không hay. Lúc tỉnh dậy được sau cơn mê mệt, giỏ thăm nuôi đổ, mấy gói cá muối bị xé rách, tung tóe. Nơi lỗ cầu tiêu, lại nó, con chuột. Cặp mắt nhỏ như hai hạt đậu, tinh quái, thập thò.
Ngày mấy? Tháng mấy? Còn hỏi làm gì nữa….”
Các con thăm nuôi cha mẹ - là Nhã Ca và Trần Dạ Từ cùng đang bị nhốt tù ở cát-sô khác nhau. Các con đang khó khăn, không cha mẹ bên cạnh, mà nay lại phải thăm nuôi cha mẹ.
Trong nhà tù, muốn ăn phải có tiền: “"Quá trưa, một vệ binh áo vàng, dáng dấp hiền lành, ngượng nghịu, tới đứng trước bọn tù: Báo cáo, các anh chị không có phần cơm. Ai muốn ăn, góp tiền gửi ra mua bánh mì. Các nhóm xôn xao thu góp. Tôi lấy ra tờ 50 đồng đưa cho anh vệ binh: Anh uống cà phê, hút thuốc, rồi mua dùm chúng tôi tám ổ bánh mì thịt, lấy thêm nhiều cà chua, dưa leo. Tám bịch cà phê đá. Thêm ba bốn bao thuốc du lịch có cán. Từ nói. Hộp quẹt nữa. Bữa ăn trưa linh đình. Đám vệ binh được ăn theo, cao hứng, mở hết còng cho mọi người...".
Những đoạn tà cảnh đối phó với “chủ nhân” mới, là những phần gây chú ý mà cũng gây lý thú cho người “phe thua”. Trích vài đoạn: “Saigon đổi chủ, ngay năm đầu, Vũ Hạnh thành anh Hai của Hội Văn Nghệ Giải Phóng thành phố. Chính hội này, ngoài việc dự phần lập danh sách bắt giam, còn cử cả người vào tận sở công an hỏi cung các nhà văn nhà báo bị giam giữ.
Chu Tử chết trên tầu ra khơi. Con gái, chàng rể, cả cháu ngoại sơ sinh của ông, vẫn không được bỏ quên, dù Đằng Giao chỉ là một họa sĩ, Thũy thì chưa hề viết một bài văn bài báo.
Tháp tùng phái đoàn thành ủy, vô tận khám Chí Hòa, đứng coi Nguyễn Mạnh Côn, Đằng Giao… cởi trần, gãi ghẻ trong chuồng sắt. Vẫn chưa thỏa lòng. Ông phó chủ tịch hội nhà văn thành phố còn phải tới tận nơi, nhìn tận mắt, coi mặt mũi con gái Chu Tử đưới cái nón mê tơi tả ra sao.
Người cho tôi biết những sự việc trên là một ông anh trong làng văn. Chú giải xong các chi tiết, ông còn khôi hài thêm: “Cô coi. Saigon chỉ có hai con đường, tên cũ tên mới đều thành thơ dân gian: Nam kỳ khởi nghĩa, tiêu Công Lý. Đồng khởi vùng lên, mất Tự Do. Vợ chồng Đằng Giao-Chu Vị Thủy có nhà ba tầng ở Công Lý. Bây giờ lại thêm cô. Tù về, nghênh ngang ngay giữa đường Tự Do. Xốn con mắt lắm nghe. Hàng ngày, các vị anh hùng văn nghệ giải phóng qua lại đây nườm nượp, chịu gì thấu. ông lao người ta cách mạng gian khổ bao nhiêu năm. Bọn văn nghệ phản động đã bị đánh tới vậy mà nhà cửa thì vẫn thế này. Sẽ không yên đâu”
Lời ông bạn báo động giùm nghe “lô gích” gớm. Tôi kể. Thủy không gật, không lắc, chỉ nhẹ nhàng thở dài:
“Làm thế nào bây giờ, cô. Thôi thì cháu tiếp tục lấy cái nón mê, cho luôn mặt mũi mình cho xong”.
Món nón mê, giả dại qua ải, không hợp với tôi…” (tr. 126-127).
Người mất ngày tháng – bà Nhã Ca, ghi lại hồi ức một quãng đởi kinh hoàng mình sống trong địa ngục nhà tù cũng như những khi được thả về nhà tù lớn. Khi con gái lâm trọng bệnh, mới thấy tình người và cái tốt của bạn hữu trong cơn cùng cực: “Ít lâu sau ngày có lại Mẹ bên cạnh, Sớm Mai lăn ra sốt. Mỗi lúc một nặng. Mấy bữa thì mê sảng. Con bé mười bốn tuổi lả trên tay Mẹ. Tương hàn đã tới hồi nhập nội.
Toàn, Bẩy, mấy ông chú trong”công ty tiêu tùng” giúp tìm xe, chở Sớm Mai đi cùng khắp các bệnh viện trong thành phố. Mọi nơi chỉ có chung một câu trả lời: phải có giấy giới thiệu của phường. Thứ giấy kỳ quái này lại không thể xin được. Sớm Mai càng lúc càng thoi thóp. Đã tưởng bó tay thì điện thoại reo. Bố Nguyễn Xuân Nghĩa của bé gọi lại, biết chuyện, la muốn vỡ ống nghe:
“Lại Viễn ngay. Ô hay, hồn vía bà để đâu vậy? Ông Viễn bà Như cùng dân ở Tự Do cả, bà chạy sang chỉ có mấy bước. Ông Viễn cũng mới học tập về, không hành nghề bác sĩ nữa, hưng thế nào cũng có thuốc men cứu cấp (…). Anh chị Viễn-Như tới với tấm lòng và túi thuốc. Sớm Mai được cứu sống…” (tr. 131-132).
Đoạn kể lại “Đám tang Hồ Hữu Tường”:
“… Buổi chiều, nắng quái dị lay lắt. Tiếng máy xe Honda ầm ĩ. Chủng bước vô.
“Chị rảnh không?”
“Chi vậy?”
“Rảnh em chở chị đi thăm ông Hồ Hữu Tường”.
Khùng điên gì đâu. Ông ta đang ở một trại tù nào, Xuyên Mộc, Hàm Tân, Long Khánh hay xa lắc, Gia Trung. Mấy cậu còn trai trẻ, hoàn cảnh nào cũng đùa được
“Em có đùa đâu. Ông ta đang ở nhà mà”
”Ủa, được tha rồi sao?”
“Chưa. Nhưng chết”. Chết đâu có gì đáng cho tôi ngạc nhiên. Như khi nghe tin anh Hoàng Vĩnh Lộc, anh Minh Đăng Kháng, anh Trần VIệt Sơn, anh Nguyễn Mạnh Côn…
Không có anh Sỹ và các anh khác. Cũng không kịp thông báo. Ngồi lên yên sau, tôi nhờ cậu em đèo tới đó. Rồi công an, mật vụ, theo dõi, mượn cớ khó dễ thì sao? Mặc kệ. Thời buổi mà đi thăm người chết cũng là một trọng tội thì còn nói gì nữa. (…).
Khá đông. Những ai vậy? Không thấy mặt một người quen nào. Có tới mấy người đàn bà. Chưa mặc tang phục. Quan tài đặt giữa nhà. Chắc phải tới đó trước để đốt một nẹn nhang.
“Mời chị dùng nước”.
Ai nói đó. Giọng Chủng tiếp: “Chị Nhả, bác gái ở đây này”
Một bàn tay đặt lên vai, đưa lên nữa, vuốt tóc tôi.
“Nhả Ca đây hả? Chào cháu. Bác có biết cháu. Biết thôi, phải nhờ bác trai chết, mới nhìn thấy mặt cháu”
Nhìn lên. Chưa bao giờ tôi thấy một người đàn bà đẹp như thế. Chưa bao giờ. Thật mà. Nhìn bà ta coi, dong dỏng cao, thanh tú. Còn nét mặt kìa, mắt sáng một cách kỳ lạ. Gò má cao, mắt mũi miệng cân bằng giữa sự hiểu biết, thông minh cùng nét lạnh lùng đến tàn nhẫn của sức chịu đựng. Chiếc phong bì trên tay sao bỗng ngượng ngịu quá.
“Đưa phong bì đây. Tốt. Tột lắm”
Dõng dạc, bình tĩnh, mà còn đầy thân mật nữa . (…) Lúc đó, tôi mới chợt nhận ra nhiều bộ mặt chìm nổi của công an, giả dạng đủ hạng người.
“Dạ, thưa … nhà tôi còn sống được từ trại tù, tới đầu con ngõ. Dạ thưa, tắt thở ngay đầu ngõ. Có kịp nhìn thấy nhà cửa không à? Dạ thưa, chẳng cần đâu, nhìn làm gì mọi thứ đã không còn như cũ… Vâng, thưa, lúc nhà tôi về tới nhà, chỉ có khoảng nơi trái tim còn hơi ấm…”
Bà đưa tay lên. “Dạ, tôi lấy kịp chút hơi ấm ấy. Dạ, nó vào hết đây”.
Miệng có méo xệch đi. Nước mắt có rơi? Không. Vẫn khuôn mặt bình tĩnh, tuyệt đẹp.
Buổi sáng hôm sau, con ngõ mở ra đường Trần Quang Khải chật ních người. Tôi đứng chờ trước ngõ. Khi quan tài đi qua, dẫn đầu lả anh Tuấn, hai tay bưng di ảnh ông bố. Bức ảnh xung quanh như bị xóa sạch hết. Chỉ có khuôn mặt ông Hồ Hữu Tường ngước lên, với cái micro trước mặt. Ông ta nói gì với hư vô và hư vô đang nói gì với ông ta? Ô hay, đã tưởng là không khóc được nữa.
Chẳng nhớ bao lâu sau, có dịp ghé lại. Vẫn ngôi nhà xưa, cũ kỹ, điêu tàn, bề bộn hơn. Bưóc vào nhà, vắng ngắt. Nhà cửa ngổn ngang những bao gạo, thúng, gánh bỏ không. Gặp lại người con tên Tuấn.
"Xin lỗi. Tôi muốn thăm cụ bà."
"Mời chị vào. Mẹ tôi có ở nhà."
Bước vào, ngơ ngác. "Bác đâu?"
"Mẹ tôi kia kìa, chị."
Theo tay, nhìn lên. Bàn thờ giản dị. Trên cái tủ nhỏ, bên trong đồ đạc đã trống hốc, là hai bức ảnh, chung một bát hương. Bức ảnh bà cụ đã đứng tuổi, mắt sáng, đẹp, bên cạnh ảnh ông chồng nhà văn nghiêm trang. Mắt cả hai như đang nhìn tôi, mỉm cười.…” (tr. 449, 450-451).
Cảm động nhiều ở Những Ngày Giờ Cuối, gia đình tác giả rời Sài Gòn sang Thụy Điển tị nạn. Rời nhà với bóng người Mẹ ““Mẹ. Bà ngoại.” Tiếng Sớm Mai la lên sau lưng tôi.
Sức yếu, con cháu đông. Bà ngoại đã quyết định không rời Việt Nam, cũng không theo ra phi trường đưa tiễn. Từ sáng sớm, bà bình tĩnh ngồi ăn trầu, trò chuyện với con cháu. Bây giờ, bà đang đứng trên vỉa hè, thu hết sức già, vươn người lên la gọi trong tư thế tuyệt vọng. Lại hệt như hôm nào, bà chạy ra kêu trời khi bọn phường đội mang súng ống tới chiếm nhà”.
Những tiễn đưa bất ngờ của thân bằng, nhũng Nguyễn Thị Hoàng, họa sĩ Choé, và ông Khai Trí – “Sau 1975, cửa tiệm, nhà cửa, tài sản bị tịch thu, ông đã trải qua nhiều năm tù. Nghe kể, hồi ở trại giam T20, ông bị ghẻ cùng người, không sao nằm xuống được. Mười mấy năm nay, chúng tôi không được gặp lại ông. Vậy mà bây giờ, từ phía ngoài phòng cách ly, ông đang bò cả người nhìn qua lỗ thông hơi ở dưới chân tường.
“Nghe các anh báo tin anh chị đi, tôi vội đạp xe tới. May quá, còn kịp bắt tay anh một cái.”
Hai người đàn ông, kẻ trong người ngoài, cúi xuống bắt tay nhau qua lỗ hổng dưới chân. Chỉ có vậy, hai bàn tay rời nhau vội vàng. Không còn thì giờ nữa.
Qua cửa khám xét cuối cùng của Hải Quan. Sân bay ngập nắng.
Hồn non cô bé năm xưa liều lĩnh bỏ Huế vào Saigon thơ thẩn góc nào? Có thấy tôi ra đi?”.
O Xưa là ấn phẩm gần đây nhất được xuất bản. Tuyển tập 13 truyện với không gian, hồi ức và tiếng nói Huế - có truyện trích đoạn hoặc liên hệ với các tác phẩm dài hơi khác. O Xưa, nhân vật là một người đàn bà luôn chỉ mặc “chiếc áo tứ thân màu nâu phai lạt và sờn rách, tóc vấn khăn xô lệch” không nhà cửa, sống một mình, bị mọi người coi như bà điên, nhưng lúc nào cũng mơ về một cuộc tình thắm thiết với một nhân vật không có thật được O Xưa gọi là ‘chàng Ba’ bà sẽ lấy làm ‘dôn’, và có với chàng ba đứa con tưởng tượng o luôn bồng đứa “con trong bọc cũng không bao giờ lớn, cứ nằm trong cái bọc vải từ năm này tới năm khác”.
Đoạn cuối O Xưa như một nhắc nhớ của tác giả: "Nhiều năm cũng đã qua với tôi, với nhiều người Huế sống trên con dốc Nam Giao. Bỏ Huế. Tứ tán. Mất nước. Lưu lạc xứ người. Người Huế, nhớ Huế. Với tôi, O Xưa là một hình ảnh khó quên trong tuổi mới lớn. O Xưa còn nhắc nhở tôi một giai đoạn lịch sử kinh hoàng. Đó là những năm trước, thời kháng chiến mùa Thu của Việt Minh. Nhiều buổi sáng, mấy đứa trong xóm rủ nhau đi học, ra khỏi con hẻm đầu dốc, chúng tôi gặp nhiều xác chết. Đó là lúc thường nghe tiếng đàn bà rú lên, gào khóc. Có xác bị mất tứ chi, có xác bị cắt đầu, hoặc cái đầu máu me đặt trong chiếc nón rách ghim một bản án của Việt Minh. Không theo Việt Minh là Việt gian, giết đến bao giờ cho hết. Như người bạn nhỏ của tôi, một buổi sáng dậy, xách cặp đi học, thấy cha bị giết, xác và bản án đặt trước ngõ nhà...
Đàn bà rú lên, gào khóc. Con nít không dám ra đường sáng sớm, những lúc xác người, đầu lâu chưa được dọn đi. Nhưng O Xưa ra đường sớm lắm. Vẫn bế bọc vải trên tay, O đi đến bên xác chết. Có người chết nào, hay đầu lâu nào chưa chịu nhắm mắt, O Xưa vuốt mắt cho họ và thủ thỉ: "Đừng buồn. Đừng sợ. Để tui nhờ chàng Ba chỉ đường tránh cửa ngục...".
—Nguyễn Vy Khanh
[Văn-học Việt-Nam 50 Năm Hải ngoại. Q. Hạ, 2025, tr. 156-170]
Gửi ý kiến của bạn


