Hôm nay,  

Văn-học Việt-Nam 50 Năm Hải ngoại – Thơ Trần Dạ Từ thời Hải ngoại

24/10/202517:07:00(Xem: 1033)
tran-da-tu-by-choe
Nhà thơ Trần Dạ Từ -- Tranh sơn dầu của họa sĩ CHÓE.

Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
 
Năm 1989, gia-đình ông được chính phủ và Văn Bút Thụy Điển vận động sang nước này sinh sống, đến năm 1992 thiên cư sang Quận Cam, California, Hoa Kỳ. Tại đây cùng với Nhã Ca, ông lập hệ thống Việt Báo.
 
Đã xuất-bản ở hải ngoại Thơ Trần Dạ Từ (tuyển 60 năm làm thơ gồm 7 thi tập Thủa Làm Thơ Yêu Em; Tỏ Tình Trong Đêm; Yêu Em Yêu Loài Người trước 1975 và các thi tập ở hải ngoại: Hòn Đá Làm Ra Lửa; Nụ Cười Trăm Năm; Gội Đầu / Bay; Thơ Lặng Lẽ) do Việt Báo Foundation xuất bản năm 2018. Ông chủ biên tập Quê Hương, Bạn Hữu, Tù Đày: thơ văn hồi ức ký họa mang theo từ một thời người viết bị cầm tù  (Stuttgard: Trung tâm Độc Lập, 1990) /  Writers and artists in Vietnamese gulags; with Choé's cartoons from Vietnam; xuất bản nhân Ngày văn nghệ sỹ Việt Nam tại Washington D.C., 11-9-1990.
 
Xin trích bài về cõi Thơ, như những nhắn nhủ:
 
Chào bạn, người khách trẻ của tôi
Đặt chân vào cõi tan tác này
Có thể
/ Bạn sẽ phải lãnh tí ti sốc
- Thơ thẩn quỉ quái gì thế này?
Cùng khắp, toàn sẹo dài sẹo ngắn
- Tới luôn, bạn ơi
/ Bọn chúng chỉ là
Vết roi đòn ngô nghê
Từ một thời vớ vẩn
Ô ồ, những lằn roi cũ đang trở mình
Đừng bận tâm, người sắp đọc  tôi
Chuyện giản dị thôi:
/ Bọn sẹo ngắn sẹo dài
đang sửa soạn nụ cười
- đón bạn – 10-2017 (Mở)
 
Thơ tình, con chữ khó khăn tự bản chất và tâm hồn, trong nhiều nghịch cảnh:
 
Nó ở đâu ra. Cái nhe răng
Nó ở đâu ra. Cái trợn mắt
Nó ở đâu ra. Cáo gầm gừ
Nó ở đâu ra. Móng và vuốt
Chúng ta đã gặp gỡ. Đã hẹn hò
Đã ôm ấp. Đã vuốt ve
Đâu thấy có nó
Chúng ta đã yêu đương. Đã sinh nở
Đã ghen tuông. Đã giận dữ
Đâu thấy có nó
Chúng ta đã sụp đổ. Đã chia lìa
Đã nhắm mắt. Đã tưởng tượng
Đâu thấy có nó
Nó ở đâu ra. Sao nó ra vậy
Cụp nó lại. Dìm nó xuống
Bẻ nó. Chặt nó. Dzụt bỏ nó
Khó à / Làm thế nào bây giờ
Từ từ. Cẩn thận nhé
Anh hôn em
” - Saigon, 9-9-1988, Ngày trở về từ nhà tù
(Thơ Tình Kiểu Nguyên Sa)
 
Và trong những tình cảnh khác:
 
Dòng sông biết bay / Biển khơi biết bay
Chúng bay lên thành mây.
/ À a há! 
Mây tím mây vàng 
Mây xanh mây trắng 
Mây bay vào mắt chàng
Ô ồ ồ! Em cười 
Và mắt anh chàng bay 
/ bay bay theo em
Và em bay em bay
/ lung linh như giấc mơ
Mùa xuân biết bay / Tình yêu biết bay
Chúng bay lên thành thơ. 
/ Ơ hơ ớ!
Thơ ngóng thơ chờ 
Thơ thương thơ nhớ
/ Thơ bay và mắt mờ
Ố ồ, anh chàng khờ!
Đừng đắm trong mộng mơ 
Mau bay bay theo em 
Bay ngay không đợi chờ.
Và áo bay môi bay mắt bay
Tơ trời bay tóc bay
Sự sống bay.
Trong em trong tôi 
Bay ngay hôm nay
Bay ngay trong đời này.
Bay bay! Bay bay! / Bay!” - Calif 2015 (Bay)
 
Có những lúc nhớ nghĩ lại những nơi đã sống và đi qua, có những cái vui trong con chữ được đụng đến:
 
Con cá gô trong cái gổ / nhẩy gồ gồ,
Đọc Chú Chín Cali viết về nước Mỹ
Nhớ ơi. Nhớ Bà Sáu Lục Tỉnh
Nhớ Cô Ba Sàigòn
Nhớ nhớ. Tô canh chua nhấp nhô 
Con cá rô. Ố ồ, Chú Ba Chợ Cũ cười 
Hây hây nó là mầy, 
/ con cá rô cây
Lỏi tì bắc kỳ năm tư vô Sài gòn.
Dzô. Dzô. Dzô. Dzô hò dzô
Dzô cái tô. Ô hô 
Cá rô cây thành cá trong gô
Con cá cây khô lèn trong bao bố
Và con cá tu gô
Gô. Gô. Gô. À gô gô
Con cá gô trong cái gổ 
/ nhẩy gồ gồ
Giống như tôi, con cá rô cây
Nó nhớ cái tô, nhớ cái gô
Xì xồ ngọng nghịu trong cái rổ
- Little Saigon, 9-2017
(Con Cá Rô Cây)
 
Hòn Đá Làm Ra Lửa là một trường ca 12 đoạn được ghi chú là được làm trong đầu tại trại tù Gia Trung-Hàm Tân (1979-1988), ghi thành chữ lần đầu tại Thuỵ Điển tháng 11-1988, và đăng toàn bài lần đầu tại Hoa Kỳ trong tạp chí Văn do Mai Thảo chủ biên tháng 2-1989…”.
 
Bản trường thi như một tự sự mang tính đối thoại với người thân và bằng hữu cùng hoàn cảnh lúc này hoặc đã từng sinh hoạt một thời… Bài mở đầu:
 
“Đen đúa. Sần sùi. Không đáng một xu
Dzụt gốc xoài. Quạ không thèm mổ
Quăng tận ổ. Kiến không thèm bu
Phơi giữa trại tù, kẻ thù không ngó
Đó là một trong hai hòn đá cổ sơ
Chỉ có em và tôi cất giữ
Rời nhau ra. Lặng lẽ. Dư thừa
Hợp đôi lại, chúng làm ra lửa”.
Những lời đầu để nói với người yêu dấu:
“Không hề từ que diêm, từ hộp quẹt
Chính từ lửa chung của đôi ta
Những quả bóng lân tinh đêm ấu thời

Đã đưa tôi về em
Không hề từ cột điện, từ dây nhợ
Chính từ lửa chung của đôi ta
Ngọn đèn nơi ngã ba năm nào
Khuôn mặt đêm tháng giêng dàn dụa
Không hề từ mặt trời, từ gió nồm
Chính từ lửa chung của đôi ta
Những hàng phượng chụm đầu bốc cháy
Lợp đỏ một mùa hè ngây dại
Chính từ lửa chung của đôi ta
Đám cháy hoa phượng
Đám cháy những nụ hôn lặng lẽ
Những năm tháng mù loà
Những bài thơ khù khờ, cóp nhặt
Đã cuộn khói ngạo nghễ
Không phải quê quán, mẹ cha, con cái
Cũng chẳng phải đất đai, của cải
Chính cuộn khói dại dột bốc lên
Từ lửa chung của đôi ta
Đã làm tôi kéo em vấp ngã
Chúng ta đã chia lìa
Chúng ta bị tước bỏ, bị bôi xoá
Lần cuối, khi quay đi trong xiềng xích
Em nhớ mà. Chúng ta cùng thấy nhau
Hòn đá cổ sơ sần sùi
Trong mắt nhìn mỗi đứa…”.
 
Đoạn 2 kể nổi đau khi tai ương ập tới:
 
Cánh cửa bứt khỏi cổng, nhà bứt khỏi người
Trang giấy bứt khỏi mặt bàn
Chữ nghĩa bứt khỏi sách
Chúng ta bị bứt ra khỏi nhau
Ngày tháng năm bị bứt khỏi sự sống
Em vào nhà tù này, ra nhà tù kia
Bị đạp đổ. Đứng dậy
Bị phủ dụ. Quay đi
Bị đe doạ, mặc cả. Nhổ bọt
Em bị xua đuổi khỏi thành phố / Và biến mất
Như bao nhiêu người đã lặng lẽ biến mất
Tôi không biết giờ này em ra sao
Có lượm lại đủ lũ con cái tan tác không
Tôi không biết giờ này chúng thế nào
Em có gì để ăn, cho chúng ăn
Em có cách gì để thở, cho chúng thở
Em còn chỗ nào để nương náu, tạm bợ
Những con số dầu hắc hằn học
Khằn trên lưng trên ngực rách rưới
Những con số chì than dửng dưng
Trong sổ cái, sổ con bụi bậm
Những con số lặng lẽ lầm lì
Trong những T. những K. những Z.
Những con số vô danh, vô nghĩa
Những chữ cái vô tư, vô tội
Nhan nhản khắp nơi
Em sẽ tắt đi vĩnh viễn trong đó chăng
Như tôi. Như bao nhiêu người khác
Khi đĩa đèn ta cạn…”.
 
Ở đường củng, phải đối mặt với những con người mang mặt nạ ăn nói toàn mỹ từ gian dối, dùng cái đói thân xạc để chế ngự, đánh gục đối phương:
 
Nhưng chúng ta đang biết cái đói khác
Cái đói tùng xẻo rỉ rả đêm ngày
Được xưng tụng là kinh điển, chính sách
Được trang phục lộng lẫy bằng mỹ từ
Phát minh vĩ đại của thiên tài
Vũ khí chuyên chế vô địch của giai cấp
Chủ nghĩa bách chiến bách thắng của thế kỷ
Ở đâu ra cái đói quỉ quái ấy?
Từ quả cân đẫm mồ hôi, lão địa chủ thu tô
Từ đồng xu cắt cổ, bác chà gom nợ lãi
Đâu giản dị có vậy
Cái đói phát minh của thiên tài
Mọc từ luống cầy trên trán hói
Cầy đi cầy lại cầy tới cầy lui
Đã để lại bao nếp nhăn tối tăm
Trên vầng trán đẹp đẽ đáng tiếc, sớm hói vì hằn học
Cái đói thành vũ khí chuyên chế vô địch
Nó được tính toán, được kết hợp lô gích
Sự co thắt dạ dầy. Nước miếng. Tiếng kẻng
Được tung, được hứng / Được quảng cáo xôm tụ:
Kiểm kê. Quản lý. Làm chủ

Và nó vơ. Nó vét. Nó ban phát ơn huệ
Biến chén cơm, miếng bánh thành ma tuý
Biến tiếng kẻng cho ăn thành lệnh của ma quỉ
Để khuất nhục đồng loại
Tôi biết cái vũ-khí-đói này
Em ở đâu. Em coi chừng nó
Kẻng ăn gõ / Nước miếng ứa / Rớt nhãi chẩy
Biến hoá thành muôn hình nghìn vẻ…”
Chẳng có gì đáng lo cho họ
Cũng đừng lo lắng cho chúng ta
Như anh biết yêu em và làm thơ
Tương lai biết phần việc của nó
Nguyễn. Và Nguyễn. Và Nguyễn nữa
Sắp chết
Sẽ đến lượt Lưu. Đến lượt Lê. Đến lượt Doãn
Có thể sẽ không còn chúng ta
Như đã không còn Khái Hưng,
Phan Văn Hùm, Phan Khôi
Đã không còn Vũ Hoàng Chương,
Nguyễn mạnh Côn, Hồ Hữu Tường,
Trần Việt Sơn, Nguyễn Hoạt
Không còn. Như bao anh em khác
Có thể không còn
Cũng chẳng mất đi đâu
Dòng chẩy nào không hao hụt, bốc hơi
Có thể chúng ta vẫn quanh quất đâu đó
Như bọt nước tung toé reo vui / Nơi này. Nơi kia
Trong bước đi bất tận của dòng suối sinh nở
Trang giấy chúng ta bị vò nát, ném bỏ
Có thể không bao giờ còn được nhặt lên
Bài thơ này, bài thơ khác / Có thể không viết ra
Tình yêu, sự ấm áp tôi hưởng nơi em
Như hòn đá cổ sơ trong chúng ta
Có thể không bao giờ còn được nhắc tới…”
 
Lời cuối là hy vọng và nhắn nhủ như tự khích lệ:
 
Đó là một buổi sáng tháng Giêng rực rỡ
Không thứ cờ quạt nào vấy nhơ nổi bầu trời
Không thứ chủ nghĩa nào bôi bẩn được trí nhớ
Đồi núi và em mặc chung áo nắng vàng
Suối nước và em đi chung từng bước chân
Giản dị thôi. Như ngày nào. Em tới
Tới và nói chung với cây cối một lời
“À. Anh ấy nằm đây / Phải vậy chớ
Anh ấy vẫn giữ nó / Hòn đá làm ra lửa.”
 
Trần Dạ Từ đến với thi ca như một người tình si, những con chữ da diết và lời tình vương vấn suốt sự nghiệp văn chương, cho đến khi bị quật ngã, tình nhập vào thơ và vẫn vươn lên như ngọn lửa, như hòn đá làm ra lửa!
 
Nguyễn Vy Khanh
[Văn-học Việt-Nam 50 Năm Hải ngoại. Q. Hạ, 2025, tr. 477-484]
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)
Nhã Ca sáng tác bài “Một Đoạn Nhã Ca” vào năm 1972. Trước biến cố lịch sử 1975, bà là một trong vài nhà thơ nữ hàng đầu ở Miền Nam Việt Nam, với dòng thơ mang những tứ thơ sâu sắc, ngôn ngữ thơ lãng mạn, ý niệm thể hiện và bênh vực giá trị của người nữ. Thơ Nhã Ca có thể gom vào hai chữ “dám nói.” Bài “Một Đoạn Nhã Ca” mở đầu bằng 9 câu, kết bằng 3 câu, và 111 câu thân, tổng thể là 123 câu, chia ra 15 đoạn. Nhìn một cách tâm lý, phải chăng 15 đoạn thơ này đại biểu một số điều cho một đoạn tiểu sử ngầm của Nhã Ca? Nói một cách văn vẻ, phải chăng có 15 cửa sổ để mở nhìn vào căn nhà bí ẩn của một nhà thơ nữ? Đây là bài thơ truyền đạt qua thể thơ tự do. Số chữ không đều trong mỗi câu. Số câu không đều trong mỗi đoạn. Số đoạn không có giới hạn trong bài. Sự so le và thoát khỏi ràng buộc này nói lên tình tiết diễn đạt qua thơ không bị tù túng, ý thơ không bị chật hẹp trong luật lệ. Phù hợp với cảm xúc thôi thúc, ngổn ngang của tác giả và tạo ra cảm giác kích động của độc giả
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Nếu phải tóm tắt các tác phẩm lớn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), có thể nói rằng ông đã phản ánh nỗi lòng của người trí thức Việt Nam cùng thế hệ, là những người bước vào tuổi 20 trong thời kháng chiến, chứng kiến sự đảo lộn của xã hội. Họ đã có thể có những phản ứng, hành động trước thời cuộc đó, nhưng phần nào bất lực không ngăn chặn được những xáo trộn xảy ra chung quanh. Truyện dài Dòng Sông Định Mệnh (1959) là một tác phẩm như thế. Ở mặt nổi, đó là một chuyện tình lãng mạn, hai người trẻ, một dòng sông. Nhưng sâu hơn, đó là bi kịch của những con người bị cắt đôi giữa lý tưởng và sự thật phũ phàng. Ở phương diện đó, Dòng Sông Định Mệnh có những chi tiết, những nhân vật hình mẫu sẽ trở lại trong bộ tiểu thuyết Khu Rừng Lau, nhất là tập Ba Sinh Hương Lửa (1962), mà ông sẽ viết sau này.
Krasznahorkai, trong các tiểu thuyết như Melancholy of Resistance hay Baron Wenckheim’s Homecoming, viết như người vừa chứng kiến ngày tận thế và vẫn phải tiếp tục kể, dù biết không còn có người nghe. Văn chương ấy, như James Wood nói, “vừa tuyệt vọng vừa kiêu hãnh, như một bản cầu siêu cho nhân loại.”
Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vừa từ trần vào lúc 10 giờ sáng ngày 14/10/2025 tại bệnh viện ở Nam California hưởng thọ 102 tuổi . Ông sanh năm Quí Hợi 1923 nên tính theo tuổi ta, ông thượng thọ 103 tuổi. Nhân đây, tưởng nhớ ông nên đắng lại bài viết Tác Phẩm Khu Rừng Lau Của Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vào ngày 5/11/2025
László Krasznahorkai – nhà văn Hungary vừa được trao giải Nobel văn chương – nổi tiếng với những câu văn dài như một hơi thở kìm nén, nơi ý tưởng đi qua địa ngục mà vẫn giữ vẻ điềm tĩnh của thiên thần. Một thiên thần lướt trên chúng ta là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách ấy: giữa bùn lầy chiến hào và tiếng pháo rít xé trên đầu, một người lính cụt chân, mắt mờ, lại giảng về văn minh số, về văn hóa như bản năng sinh tồn của loài người. Chiến tranh vẫn gầm thét, nhưng lời anh vẫn tuôn, dài, sáng, và lạ thay – đầy hy vọng. Bản Việt ngữ của Ngu Yên dịch từ bản Anh ngữ của John Batki, giữ nguyên nhịp câu, những đoạn văn dài như dòng suy tưởng không dứt.
Khoảng hai giờ trước khi Mats Malm, vị thư ký trầm tĩnh của Viện Hàn Lâm Thụy Điển, bước ra, thế giới vừa nghe tin: Israel và Hamas ký hiệp định hòa bình. Một mẩu tin nhỏ, nhưng làm cả hành tinh thở nhẹ. Có lẽ, nếu tinh ý, người ta đã thấy khóe miệng vị diễn giả ấy nhích lên một nụ cười như thể dành riêng cho nhân loại, sau khi đã hứng chịu quá nhiều tuyệt vọng. Và rồi, cái tên được xướng lên: László Krasznahorkai, nhà văn Hungary – kẻ viết những câu văn dài như cơn hấp hối, nhưng mỗi chữ lại sáng rực như ngọn đèn dầu giữa đêm mất điện. Một bất ngờ… mà thật ra chẳng mấy ai bất ngờ. Viện Hàn lâm Thụy Điển, như thường lệ, lại khiến người ta ngạc nhiên bằng cách không hề ngạc nhiên.
Phân lý chữ nghĩa Bùi Giáng là việc làm nghiêm túc một cách khôi hài. Phê bình thơ Bùi Giáng là khôi hài một cách nghiêm túc. Tôi chú ý đến hai đối cực hài hòa này vì càng suy nghĩ, càng lý luận, thì càng cảm nhận chất khôi hài trong thơ Bùi Giáng là một đặc sản. Thưởng thức thơ Bùi Giáng, trước hết là thú vị với cách thế đùa nghịch chữ nghĩa và tứ thơ của ông, tiếp theo là những ngạc nhiên về chất lượng ngộ nghĩnh và biến hóa trong ý nghĩ, tư tưởng của Bùi Giáng một cách sâu sắc và sự sâu sắc này mang đến lòng ngưỡng mộ, vì sự sâu sắc này mà chúng ta cần phải nghiêm túc.Trước Bùi Giáng có rất nhiều nhà thơ làm thơ hài hước nổi danh như Tú Xương, và các ông tú sau này. Hầu hết các nhà thơ thành danh đều có thơ hài hước, như Nguyễn Khuyến, Tản Đà, vân vân. Tuy nhiên, gần như những hài hước đó luôn kèm theo sự mỉa mai, nụ cười xách mé, mỉm cười khinh bỉ, nín cười che miệng, cười lớn chế nhạo. Trong khi chất khôi hài của Bùi Giáng qua thơ chỉ tạo ra nụ cười hoặc tức cười.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.