Hôm nay,  

2 video: Kinh Pháp Cú - Kệ số 13 và 14 - Kinh Pháp Cú - Kệ số 15

29/10/202409:23:00(Xem: 2875)

2 video: Kinh Pháp Cú - Kệ số 13 và 14 - Kinh Pháp Cú - Kệ số 15
  

Kinh Pháp Cú - Kệ số 13 và 14
Băng hình này thực hiện để cúng dường Tam Bảo. Nội dung dựa trên nhiều bản dịch khác nhau của Thầy Thích Minh Châu, Daw Mya Tin, Weragoda Sarada Thero, và nhiều Thầy trên Sutta Central và Access to Insight.
.
Kinh Pháp Cú - Kệ số 13 và 14
Câu chuyện về Trưởng Lão Nanda
 

Đức Phật đã đọc các bài Kệ số 13 và số 14 trong Kinh Pháp Cú, liên hệ đến Trưởng lão Nanda, một người anh em họ của Đức Phật.

Một lần nọ, Đức Phật đang trú tại tu viện Veluvana ở Rajagaha khi vua cha của ngài là Vua Suddhodana nhiều lần phái sứ giả đến gặp Đức Phật để thỉnh Phật đến thăm thành phố Kapilavatthu. Do vậy, Đức Phật đã thực hiện chuyến đi cùng với hai mươi ngàn vị A-la-hán. Khi đến Kapilavatthu, Đức Phật đã kể truyện bản sanh Vessantara Jataka cho hội chúng họ hàng của ngài. Vào ngày thứ hai, ngài vào thành phố, nơi ngài đọc bài kệ bắt đầu bằng "Người ta nên đứng dậy và không nên mất chánh niệm..." thì thân phụ của ngài đắc Quả Tu Đà Hòan.
 

Vào ngày thứ ba, có lễ cưới của Hoàng tử Nanda, một người anh em họ của Đức Phật. Đức Phật đã đến đó để khất thực và trao bát khất thực cho Hoàng tử Nanda. Sau đó, Đức Phật rời đi mà không lấy lại bát. Vì vậy, hoàng tử, cầm bát, phải đi theo Đức Phật. Cô dâu, Công chúa Janapadakalyani, nhìn thấy hoàng tử đi theo Đức Phật đã vội vã chạy ra và kêu hoàng tử sớm quay lại. Tại tu viện, hoàng tử được nhận vào Tăng đoàn với tư cách là một nhà sư.

Sau đó, Đức Phật chuyển đến tu viện do ngài Cấp Cô Độc xây dựng, tại Vườn Kỳ Đà ở Savatthi. Khi cư trú ở đó, Nanda không thấy vuivới cuộc sống của một nhà sư. Nanda muốn trở về đời thường vì nhớ lời của Công chúa Janapadakalyani, cầu xin Nanda sớm trở về.
 

Biết được điều này, Đức Phật, bằng năng lực siêu nhiên, đã chỉ cho Nanda thấy các thiên nữ xinh đẹp của cõi trời Tavatimsa, những người đẹp hơn rất nhiều so với Công chúa, và nói Nanda phải tinh tấn tu hành mới có thể gặp các thiên nữ đó. Các nhà sư khác chế giễu Nanda về thói quen ưa thích các phụ nữ đẹp. Nanda cảm thấy xấu hổ. Vì vậy, Nanda đã ẩn dật, nỗ lực thực hành và cuối cùng đã đạt được quả vị A-la-hán. Là một vị A-la-hán, tâm của Nanda đã hoàn toàn thoát khỏi mọi sự ràng buộc.


 

Các nhà sư khác, biết rằng Nanda từng không vui trong cuộc sống tu sĩ, tới gặp Nanda và hỏi thăm. Khi ngài Nanda trả lời rằng ngài không còn dính mắc vào cuộc sống đời thường nữa, họ nghĩ rằng Nanda không nói sự thật. Vì vậy, họ đã thưa với Đức Phật về chuyện này, và bày tỏ sự nghi ngờ của họ. Đức Phật giải thích với họ rằng, trước đây, tâm của Nanda giống như một ngôi nhà lợp mái xấu, nhưng bây giờ, ngôi nhà đã lợp mái kỹ xong rồi.
 

Sau đó, Đức Phật nói:

Bài kệ 13: Cũng như ngôi nhà lợp mái vụng về, mưa liền xâm nhập vào. Cũng vậy, tâm không tu sẽ bị tham dục xâm nhập.

Bài kệ 14: Cũng như ngôi nhà lợp mái kiên cố, mưa không vào được. Cũng vậy, tâm khéo tu sẽ không bị tham dục xâm nhập.

Video dài 3:16 phút:


https://youtu.be/YsLQI04k4Y4 

.... o ....


Kinh Pháp Cú - Kệ số 15
Băng hình này thực hiện để cúng dường Tam Bảo. Nội dung dựa trên nhiều bản dịch khác nhau của Thầy Thích Minh Châu, Daw Mya Tin, Weragoda Sarada Thero, và nhiều Thầy trên Sutta Central và Access to Insight.
.
Kinh Pháp Cú - Kệ số 15
Câu chuyện về Cundasukarika 

Khi cư trú tại tu viện Veluvana ở Rajagaha, Đức Phật đã đọc Bài kệ 15 của Kinh Pháp Cú, liên quan đến Cunda, người đồ tể chuyên giết heo.

Ngày xưa, tại một ngôi làng không xa tu viện Veluvana, có một người đồ tể bán thịt heo rất tàn nhẫn, tên là Cunda. Cunda đã làm nghề bán thịt heo trong hơn 55 năm. Trong suốt thời gian đó, Cunda không làm một việc công đức nào. Trước khi chết, ông đau đớn đến mức rên rỉ và kêu ré lên, và liên tục chuyển động, bò bằng tay và đầu gối như một con heo trong suốt bảy ngày. Trên thực tế, ngay cả trước khi chết, ông đã đau khổ như thể đang ở trong địa ngục Niraya. Vào ngày thứ bảy, người đồ tể chết và tái sinh trong địa ngục As Tỳ. Do đó, kẻ làm điều ác luôn phải chịu đau khổ vì những việc ác mà mình đã làm. Cunda đã đau khổ ở thế giới này cũng như ở thế giới bên kia.
 

Đức Phật nói trong bài kệ như sau:

Bài kệ 15: Kẻ làm điều ác sẽ đau khổ nơi đây và cả ở thế giới đời sau. Kẻ ác đau khổ ở cả hai thế giới. Kẻ ác than khóc và đau khổ, nhớ lại những việc ác đã làm.

Video dài 1:24 phút:


https://youtu.be/25GAOiRns9E
 

.... o ....



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
07/06/202404:26:00
Thầy Minh Tuệ là một hiện tượng nổi cộm đã gây xôn xao trong xã hội, trong Phật giáo, lan tỏa ra khỏi ranh giới quốc gia, một hiện tượng mà bản chất không xa lạ đối với Phật giáo và những hệ phái khổ hạnh tại Ấn, là hiện tượng cũng không hiếm tại Việt Nam từng có những vị hành cước tam bộ nhất bái, những vị khổ tu trong các am cốc núi rừng.Tóm lại, thầy Minh Tuệ là một hiện tượng đặc biệt, đặc biệt vì có những hành trạng mà ít ai làm được trong “tứ y pháp”, được cộng đồng mạng đề cao.
07/06/202400:00:00
Năm 2010 tôi về Việt Nam trong một hành trình dài từ Hà Nội đến Sài Gòn. Từ bắc đến Nam, từ phi trường đến bến xe, từ hẻm đến đường phố, bất kỳ nơi nào cũng có bầy chim cánh cụt, nhiều màu, đa số màu đen trắng, đứng từng nhóm, miệng há to, kêu lên khao khát: “Hãy cho tôi rác! Hãy cho tôi rác! Hãy cho tôi rác!” Nhìn chung quanh, dọc đường đi, đất nước tôi vẫn còn nhiều rác, nhưng với tiếng kêu thèm muốn, năn nỉ xin rác đồng loạt khắp nơi kia, chắc chắn dân tôi sẽ nghe. Bắt đầu thay đổi một thói quen phải như vậy. Lòng tôi ấm lại. Một niềm vui phập phồng. Ở đâu có sinh vật, ở đó có rác. Rác là bằng chứng có người. Người tiền sử đã biết xả rác. Xả rác là hành vi bẩm sinh. Không xả rác là hành vi tập quán. Từ hành vi bẩm sinh trở thành thói quen cho đến khi có thể thay đổi để trở thành tập quán ngược lại là một hành trình vô cùng khó khăn, vô cùng khốc liệt, không dễ gì làm được.
05/06/202407:57:00
Lúc đó, bước vào giữa ngôi làng của những người gia chủ Bà La Môn, Đức Phật chỉ nói đơn giản là hãy phát nguyện, hãy giữ hạnh nguyện xa lìa lậu hoặc và hãy “chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu!” Đức Phật đã dạy như thế với các gia chủ Bà La Môn, những người chưa từng quy y và chưa biết gì về Chánh pháp.
03/06/202407:56:00
Thực ra, chúng ta không cần tới “một Phật Giáo” nào khác cho thế gian hay cho xuất thế gian, bởi vì Phật Giáo là Phật Giáo, là con đường Bát Chánh Đạo để giải thoát đã được nói rất minh bạch, không mơ hồ. Bởi vì, nếu biến thể Phật Giáo cho phù hợp với một cộng đồng nào đó, đôi khi sức sống sẽ bị nhạt màu, sẽ mất máu, sẽ trở thành một cái gì khác, rất xa lạ với Phật Giáo.
01/06/202416:07:00
Công nghệ cao là thành tựu của loài người nhưng mặt trái của nó cũng không hề nhỏ và cái hậu quả như thế nào con người cũng chưa lường hết được. Các nhà khoa học, các nhà sáng chế phát minh, các nhà hoạch định chính sách, các nhà đạo đức, làm luật, học giả… vẫn cãi cọ bất đồng ý kiến với nhau về vấn đề này. Tất cả tranh luận mà chưa có hồi kết và dĩ nhiên cũng chưa có một tiếng nói chung nào. Duy có một điều là con người không thể thành robot được! Con người là sự kết hợp của thể xác và tâm hồn, nếu con người được cấy chíp vào não để điều khiển tự động hóa, hành xử như người máy thì liệu cái giá trị nhân văn, đạo đức, tư duy, thẩm mỹ… còn là gì?
01/06/202408:42:00
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
31/05/202400:00:00
Việc tu đạo và đạo tu trên quê hương ta, từ lâu, vốn dĩ đã bộc lộ khá nhiều khía cạnh không đáng để nể trọng nhưng phản ứng của cái gọi là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” cùng “Ban Tôn Giáo Chính Phủ” với hành giả khất thực xuyên Việt mới là giọt nước tràn ly, khiến tôi nghĩ đến những ẩn dụ tệ hại nhất. Tôi nghĩ đến Xứ Mù, “The Country of Blind”, tối tăm và cố chấp của Herbert George Wells, nơi con người hoàn toàn không biết và, do đó, không hề tin vào sự tồn tại của ánh sáng và sắc màu nhưng, bù lại, rất giỏi việc đánh hơi, rình mò. Tôi nghĩ đến “Sư Bác Chùa Kênh” của Nhất Linh, cái nhà sư đạo hạnh và uyên thâm Phật học nhưng lại đột ngột dứt bỏ đường tu sau khi được của hoạnh tài. Và tôi nghĩ đến Chí Phèo của Nam Cao, cái nhân vật giết người rồi tự sát sau khi nhận ra rằng mình không thể đi lại từ đầu, như một người lương thiện.
25/05/202406:40:00
Một người luật sư trẻ, sanh ra, lớn lên và vẫn đang sống tại Việt Nam, có lần nói với tôi là khi khai trên giấy tờ, anh luôn luôn điền vào là mình không có tôn giáo, mặc dù gia đình anh và chính bản thân anh theo Đạo Phật, tại nhà anh có ban thờ Phật và anh cũng cố gắng giữ năm giới trong cuộc sống hàng ngày.
24/05/202408:03:00
Câu hỏi “Vì Sao Phật Giáo Suy Giảm?” khởi lên trong khi tôi đọc bài viết nhan đề “Why Actor Michael O’Keefe Renounced His Buddhist Vows” (Tại sao diễn viên Michael O'Keefe từ bỏ lời nguyện Phật giáo của mình?) trên tạp chí Tricycle ngày 22/5/2024. Bởi vì, tôi nghĩ, rất hy hữu để có một Phật tử như Michael O'Keefe, một trí thức Hoa Kỳ tài năng, viết tiểu thuyết, soạn kịch, làm thơ, đóng phim cả trên màn ảnh lớn và TV đều xuất sắc. Để nói cho rõ, anh chỉ rời bộ áo Thiền sư, nhưng không thấy anh nói chuyện rời Phật Giáo. Sau khi đọc bản tin trên, tôi tìm đọc bài viết giải thích chi tiết nhan đề “The Lost Robe” (Bộ Y Đánh Mất) trong ấn bản Mùa Xuân 2024 của Tricycle.
24/05/202400:00:00
Kể về mối quan hệ với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ông Phạm Văn Đỉnh – một nhà vật lý học sống tại Pháp -- nhắc lại một sinh hoạt văn nghệ ở Sài Gòn ở đó nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu “quơ tay chỉ một nhóm văn nghệ sĩ lau nhau”: “Mấy thằng Huế tụi bây, cứ làm văn nghệ cho tao, đừng làm chính trị cho dân nó khổ!” Lời bông đùa này, nếu thật sự xét nét, cũng có thể xem là kỳ thị địa phương nhưng chúng ta không nên quá khắt khe với lời vui của một nghệ sĩ, trong một khung cảnh rất là nghệ sĩ. Mà chúng ta cũng không có quyền chộp lấy như một thứ thước đo chính trị, xã hội và, thậm chí, một thước đo… dân số học. Thế nhưng, càng soi rọi lại những trang sử hiện đại, chúng ta sẽ càng tìm ra những bằng chứng rõ ràng, cả người, cả việc, không thể nào chối cãi.
“Đây là quan điểm của người viết, không nhất thiết là quan điểm của Việt Báo.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.