Hôm nay,  

Tông Chỉ Nguyên Thanh: Soi Thấy Muôn Ngàn Thế Giới

17/04/202510:20:00(Xem: 2473)
blank
 

Tông Chỉ Nguyên Thanh: Soi Thấy Muôn Ngàn Thế Giới
 

Nguyên Giác

 

Bài này sẽ phân tích một số quan điểm trong sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, một tác phẩm về Thiền Tông Việt Nam xuất bản lần đầu vào năm 1796. Tác phẩm này được in trong Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V, ấn hành năm 2006 tại Hà Nội, do nhiều tác giả trong Viện Nghiên Cứu Hán Nôm biên dịch.
 

Những lời dạy trong sách này mang phong cách Thiền Tông Việt Nam, vì ngài Ngô Thì Nhậm (1746-1803) sau khi rời quan trường đã xuất gia, trở thành vị sư có tên là Hải Lượng Thiền Sư, và được nhiều vị sư tôn vinh là vị Tổ Thứ Tư của Dòng Thiền Trúc Lâm.
 

 Phân tích nơi đây sẽ là lời của Hải Âu Thiền Sư, ghi nơi cuối trang 224 và đầu trang 225, chụp lại từ bản PDF của sách Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V. Cũng cần ghi chú, rằng ngài Hải Lượng Thiền Sư là Ngô Thì Nhậm, xuất gia sau khi rời quan trường và được tôn làm Tổ Thứ 4 của Trúc Lâm Thiền Phái, vì ngài là người hồi phục dòng Thiền Trúc Lâm.  Trong khi đó, Hải Âu Thiền Sư là một vị sư chú giải trong các buổi thuyết pháp.
 

Nơi trang 15 sách này, ghi về ngài Hải Âu như sau: “Thanh chú: Chỉ việc chú giải rõ nghĩa thêm cho từng thanh, gồm hai vị, vị Thanh chú thứ nhất là Hải Âu hoà thượng, tức Vũ Trinh, nguyên là Tham tri chính sự, tước Lan Trì hầu, người xã Xuân Lan, huyện Lang Tài (nay Bắc Ninh).”
 

Chúng ta đánh máy lại cuối trang 224, đầu trang 225 như sau, trích:

Hòa thượng Hải Âu nói: - Trời không sinh sản mà vạn vật đơm hoa, đất không lớn lên mà vạn vật phát dục. Cho nên nói rằng: "Không gì thần diệu như trời, không gì giầu có như đất" mà trời đất thì không nơi nào là không có. Vì vậy Phật có thể coi vô số chúng sinh là nhà, thân tâm bất động, soi thấy muôn ngàn thế giới. Thánh nhân có thể coi ức ngàn muôn đời là nhà, lặng lẽ bất động, cảm hóá mà thông suốt được đạo lớn. Đạo lớn là tâm, mà tâm là trời đất, trời đất thì rộng lớn không có gì ở ngoài nó được. Trong khoảng vũ trụ, hết thảy sự vật, không kể gần xa, tâm đều đến được.

Cho nên, Phật gọi là Phật gia, Nho gọi là Nho gia, nói gộp lại gọi là Pháp (tinh thần), vì vậy nói "Pháp gia" thì nghĩa của chữ "gia" bao hàm rất rộng: Thế giới thượng hạ, không chỗ nào không phải là "gia." Dù có muốn "xuất gia" chăng nữa, nhưng "xuất gia" thì ở vào đâu? Cho nên nói: "Bồ tát không xuất gia, Nho không xuất gia." (hết trích)

blank

 

Điểm nổi bật của lời của ngài Hải Âu là quan điểm Phật-Nho một nhà. Đứng về hoàn cảnh xã hội, chúng ta dễ dàng hiểu được. Ngay như bản thân của ngài Hải Lượng Thiền Sư (Ngô Thì Nhậm) và ngài Hải Âu Thiền Sư (Vũ Trinh), gần trọn đời học Nho, lặn lội trong chốn quan trường, trải qua những cuộc chiến cuối thời nhà Lê với cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn, cuối đời mới vào chùa xuất gia. Do vậy, quý ngài không thấy có bao nhiêu sự cách biệt. Nho giáo cũng được nhìn như thế giới hữu vi thời phong kiến, trong khi Phật giáo là con đường vô vi của pháp giải thoát.
 

Thêm nữa, muốn thuyết phục các Nho gia để hồi phục dòng Thiền Trúc Lâm, cũng phải biết thuyết phục các Nho gia bạn hữu, các nhà Nho trong quan trường và cả các ông đồ Nho trong các làng xã. Thời đó, đi thi hiển nhiên phải là thi bằng kiến thức Nho gia. Không hề có chuyện đi thi làm quan cho vua mà được hỏi bài về Bát nhã Tâm kinh hay Kim Cang Kinh.
 

Do vậy, Hải Âu Thiền Sư nói, “Phật gọi là Phật gia, Nho gọi là Nho gia, nói gộp lại gọi là Pháp.” Hiển nhiên, độc giả thời nay có thể sẽ không đồng ý. Tuy nhiên, nếu bạn lùi về nhiều thế kỷ trước, bạn sẽ thấy trí thức toàn là nhà Nho. Thậm chí, có lúc Phật giáo bị Nho gia kỳ thị.
 

Nhà sử học Nguyễn Lang (cũng là Thầy Thích Nhất Hạnh) trong sách "Việt Nam Phật giáo sử luận" nơi Chương 18: Đạo Phật trong đời Nho học độc tôn, ghi nhận, trích:

"Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép rằng năm 1429, tất cả các tăng sĩ Phật giáo và đạo sĩ Lão giáo đều phải đến trình diện ngày 20 tháng 10 để kiểm xét khảo thí. Ai thi đậu thì cho làm tăng sĩ và đạo sĩ, còn ai thi hỏng thì bắt hoàn tục. Đây là hành động đầu tiên của chính quyền Nho giáo để kiểm soát Phật giáo và Lão giáo. Hành động này đã có thể loại ra một số người lợi dụng hai đạo Phật, Lão. Nhưng sự thi cử này đã được tổ chức theo lối khảo hạch từ chương của Nho giáo, những người hay chữ thì được công nhận là tu hành chân chính, còn những người khác, dù mộ đạo và tâm thành đến mấy mà không diễn tả được đức tin và kiến thức của mình bằng văn chương thì cho là không phải tu hành chân chính. Điều này, khi áp dụng với đạo Phật, nhất là Phật giáo thiền, là một sự ép uổng." (ngưng trích)
 

Cũng trong sách trên, ghi rằng ngài Lương Thế Vinh (1441-1496) là "nhà trí thức cự phách nhất của thời đại Lê Thánh Tông chỉ vì sáng tác sách Phật mà sau khi chết không được thờ cúng trong văn miếu."
 

Do vậy, người tu theo Phật phải cần tôn kính các bậc trí thức Nho gia. Tới đây, chúng ta có thể nhắc rằng, trong thời của Đức Phật, các kinh và các truyện bản sanh ghi rằng các vị Bà La Môn (mà chúng ta quen gọi là ngoại đạo Bà La Môn) tuy không thể giải thoát nhưng những người đạo đức vẫn có thể sinh lên cõi trời. Trong Kinh MN 56, Đức Phật dạy cho gia chủ Upali sau khi gia chủ này quy y Tam Bảo rằng nếu các người trong giáo phái Nigaṇṭha (mà trước đó, gia chủ Upali quy y trong giáo phái này) tới thăm nhà thì hãy cứ tiếp tục cúng dường. Lời Đức Phật dạy trong Kinh MN 56 cho chúng ta hiểu được về mặt thế tục, Phật gia và Nho gia vẫn có thể hòa hài nhau.
 

Kinh MN 56 ghi đoạn đối thoại của Đức Phật và gia chủ Upali, trích:

“—Này Gia chủ, đã từ lâu gia đình Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các người Nigaṇṭha. Hãy cúng dường các món ăn cho những ai đến với Ông!

—Bạch Thế Tôn, con lại bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con: “Này Gia chủ, đã từ lâu gia đình của Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các người Nigaṇṭha. Hãy cúng dường các món ăn cho những ai đến với các Ông”. Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: “Sa-môn Gotama đã nói: “Chỉ bố thí cho Ta, chớ bố thí cho các người khác. Chỉ bố thí cho các đệ tử Ta, chớ bố thí cho đệ tử những người khác. Chỉ bố thí cho Ta mới có phước lớn, bố thí những người khác không được phước lớn. Chỉ bố thí cho những đệ tử của Ta mới có phước lớn, bố thí cho những đệ tử của những người khác không có phước lớn”. Nhưng Thế Tôn lại khuyến khích con bố thí cho các vị Nigaṇṭha. Bạch Thế Tôn, và chúng con ở đây sẽ biết thời nên làm. Bạch Thế Tôn, lần thứ ba, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.” (hết trích)
 

Tới đây, chúng ta trở lại lời của Hải Âu Thiền Sư trong Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh. Tại sao nói rằng “Trời không sinh sản mà vạn vật đơm hoa”?

Trong thế giới hữu vi, các pháp liên tục có sinh, có diệt. Do vậy, đó là hiển lộ pháp ấn vô thường. Đời người có sinh, có tử. Cũng như những đợt sóng trên dòng sông: các đợt sóng, các bọt sóng liên tục sinh rồi diệt. Các niệm sinh khởi rồi biến diệt trong tâm mình vẫn như thế. Nhưng nếu chúng ta nhìn từ nước, thì tánh của nước vẫn là ướt, không dị biệt gì trong các đợt sóng hay bọt sóng, và trong tánh nước thì không hể sanh, không hề diệt.
 

Tương tự, cũng như ảnh hiện trong gương sáng. Các ảnh liên tục sinh ra rồi biến mất trong gương. Những ảnh này có thể gọi là những cái được thấy. Tuy ảnh tới rồi đi, hiện ra rồi biến mất, nhưng tánh sáng của gương vẫn bất động, không gọi được là sinh hay diệt, và đơn giản thì gọi là pháp vô sinh, vô diệt. Nhìn từ ảnh, sẽ thấy thế giới hữu vi liên tục sinh diệt. Khi nhìn từ gương, sẽ thấy Niết bàn vô vi vốn là bất sinh, bất diệt. Đây cũng là ý nghĩa của câu trong Tâm Kinh: “Sắc chính là Không, và Không chính là Sác.” Có nghĩa là, Sắc, tức là tất cả những cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được cảm thọ, được tư lường cũng chính là Không, là rỗng rang, là hư ảo. Và ngược lại, Không cũng chính là Sắc. Nói cách khác, các pháp do duyên sinh, nên các pháp vô ngã, và vì các pháp vô ngã, nên nói rằng không hề có pháp nào sinh ra, và thực tướng chính là bất sinh, bất diệt.
 

Ngài Hải Ấn Thiền Sư nói thêm rằng: “Phật có thể coi vô số chúng sinh là nhà, thân tâm bất động, soi thấy muôn ngàn thế giới.”
 

Phật tức là Cái Biết, là Tánh Giác. Chính nơi đây, Phật coi vô số chúng sinh là nhà, nơi đây gương sáng cũng thấy rằng vô lượng ảnh hiện cũng chính là nhà của Như Lai. Tuy rằng Đức Phật hiện ra nơi vô số chúng sinh, nơi vô số cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được cảm thọ, được tư lường nhưng cái gương sáng này, cái bản tâm này, cái thân tâm Phật đó vẫn là bất động. Và “soi thấy muôn ngàn thế giới.”
 

 Sao lại soi thấy muôn ngàn thế giới? Chỗ này chúng ta có thể nhớ tới Đức Phật dạy trong Kinh SN 35.23 Sutta rằng thế giới này thực ra cũng chính là hiển lộ của ngũ uẩn chúng ta. Chúng sinh đây cũng là tất cả thế gian, là phiền não, thực sự cũng là nhà của Như Lai, của Thế Tôn.

Kinh SN 35.23 Sutta ghi lời Đức Phật dạy, bản dịch của Thầy Minh Châu: “Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về tất cả. Hãy lắng nghe. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tất cả? Mắt và các sắc; tai và các tiếng; mũi và các hương; lưỡi và các vị; thân và các xúc; ý và các pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là tất cả. Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: “Sau khi từ bỏ tất cả này, ta sẽ tuyên bố (một) tất cả khác”, thời lời nói người ấy chỉ là khoa ngôn. Và bị hỏi, người ấy không thể chứng minh gì. Và hơn nữa, người ấy có thể rơi vào ách nạn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, như vậy ra ngoài giới vức (avisaya) của người ấy!” (hết trích)

Trong Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, ngài Hải Ấn Thiền Sư nơi trên đã nói về pháp giải thoát rằng: “Thánh nhân có thể coi ức ngàn muôn đời là nhà, lặng lẽ bất động, cảm hóa mà thông suốt được đạo lớn. Đạo lớn là tâm, mà tâm là trời đất, trời đất thì rộng lớn không có gì ở ngoài nó được.”
 

Thánh nhân, có nghĩa là người đã giải thoát. Người đó thấy vô lượng thời gian và không gian đều là nhà (tức là, biến hiện của tâm gương sáng), vốn trong thực tướng luôn luôn lặng lẽ bất động, lúc đó sẽ thấy tâm là trời đất. Ý chỉ này không phải là chuyện lý thuyết, mà là pháp thực hành của Thiền Tông, như đã nêu, trích dẫn từ bài Bát Nhã Tâm Kinh nơi trên. Nghĩa là, pháp giải thoát là thường trực thấy trực tiếp (không qua chữ nghĩa, không qua lý luận) gương sáng của tâm: tất cả những cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được cảm thọ, được tư lường đều là hiện tướng của tâm gương sáng của mình. Không cần làm gì khác.
 

Đức Phật cũng dạy như thế trong Kinh Iti 7 Sutta. Nơi đây, pháp giải thoát là chỉ cần thấy trực tiếp và hiểu trực tiếp, mà không dính mắc tâm và rồi buông tất cả các ảnh hiện đó (vì hiểu thực sự tất cả ảnh hiện đều là Không, là hư ảo). Chúng ta dịch Kinh Iti 7 Sutta như sau:  

Này các Tỷ-kheo, nếu không trực tiếp biết và hiểu trọn vẹn cái tất cả, nếu không ly tham và từ bỏ nó, các ông không thể chấm dứt khổ đau. Bằng cách trực tiếp biết và hiểu trọn vẹn cái tất cả, ly tham và từ bỏ nó, các ông có thể chấm dứt khổ đau.”
 

Chỗ này, ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ cũng từng nói rằng, người tu phải thấy tâm mình như con trâu bùn, trâu đất, khi trâu bước xuống sông thì bước tới đâu cũng sẽ thấy tan rã ra tới đó, là sẽ giải thoát, mà không cần làm gì khác hết. Nghĩa là, Thiền Tông chỉ có nghĩa là biết trực tiếp (không qua chữ, không qua lý luận) các hiện tướng của tâm, và hiểu trọn vẹn (tức là thấy nó là hư ảo, là Không, là sẽ tan rã như bùn gặp nước). Khi ảnh bất dị với tâm gương sáng, khi trâu bùn bất dị với nước sông, thì đó là khi thấy tâm là trời đất và soi thấy muôn ngàn thế giới.  
 

THAM KHẢO:

- Nguyễn Lang. Việt Nam Phật giáo sử luận: Chương 18: Đạo Phật trong đời Nho học độc tôn:

https://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/giang-kinh/viet-nam-phat-giao-su-luan/chuong-18-dao-phat-trong-doi-nho-hoc-doc-ton/

- Kinh MN 56 Sutta:

https://suttacentral.net/mn56/vi/minh_chau

- Kinh SN 35.23 Sutta (The All Sutta):

https://suttacentral.net/sn35.23/vi/minh_chau

- Kinh Itv 7 Sutta:

https://suttacentral.net/iti7/en/sujato

 

.

 

.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
07/06/202404:26:00
Thầy Minh Tuệ là một hiện tượng nổi cộm đã gây xôn xao trong xã hội, trong Phật giáo, lan tỏa ra khỏi ranh giới quốc gia, một hiện tượng mà bản chất không xa lạ đối với Phật giáo và những hệ phái khổ hạnh tại Ấn, là hiện tượng cũng không hiếm tại Việt Nam từng có những vị hành cước tam bộ nhất bái, những vị khổ tu trong các am cốc núi rừng.Tóm lại, thầy Minh Tuệ là một hiện tượng đặc biệt, đặc biệt vì có những hành trạng mà ít ai làm được trong “tứ y pháp”, được cộng đồng mạng đề cao.
07/06/202400:00:00
Năm 2010 tôi về Việt Nam trong một hành trình dài từ Hà Nội đến Sài Gòn. Từ bắc đến Nam, từ phi trường đến bến xe, từ hẻm đến đường phố, bất kỳ nơi nào cũng có bầy chim cánh cụt, nhiều màu, đa số màu đen trắng, đứng từng nhóm, miệng há to, kêu lên khao khát: “Hãy cho tôi rác! Hãy cho tôi rác! Hãy cho tôi rác!” Nhìn chung quanh, dọc đường đi, đất nước tôi vẫn còn nhiều rác, nhưng với tiếng kêu thèm muốn, năn nỉ xin rác đồng loạt khắp nơi kia, chắc chắn dân tôi sẽ nghe. Bắt đầu thay đổi một thói quen phải như vậy. Lòng tôi ấm lại. Một niềm vui phập phồng. Ở đâu có sinh vật, ở đó có rác. Rác là bằng chứng có người. Người tiền sử đã biết xả rác. Xả rác là hành vi bẩm sinh. Không xả rác là hành vi tập quán. Từ hành vi bẩm sinh trở thành thói quen cho đến khi có thể thay đổi để trở thành tập quán ngược lại là một hành trình vô cùng khó khăn, vô cùng khốc liệt, không dễ gì làm được.
05/06/202407:57:00
Lúc đó, bước vào giữa ngôi làng của những người gia chủ Bà La Môn, Đức Phật chỉ nói đơn giản là hãy phát nguyện, hãy giữ hạnh nguyện xa lìa lậu hoặc và hãy “chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu!” Đức Phật đã dạy như thế với các gia chủ Bà La Môn, những người chưa từng quy y và chưa biết gì về Chánh pháp.
03/06/202407:56:00
Thực ra, chúng ta không cần tới “một Phật Giáo” nào khác cho thế gian hay cho xuất thế gian, bởi vì Phật Giáo là Phật Giáo, là con đường Bát Chánh Đạo để giải thoát đã được nói rất minh bạch, không mơ hồ. Bởi vì, nếu biến thể Phật Giáo cho phù hợp với một cộng đồng nào đó, đôi khi sức sống sẽ bị nhạt màu, sẽ mất máu, sẽ trở thành một cái gì khác, rất xa lạ với Phật Giáo.
01/06/202416:07:00
Công nghệ cao là thành tựu của loài người nhưng mặt trái của nó cũng không hề nhỏ và cái hậu quả như thế nào con người cũng chưa lường hết được. Các nhà khoa học, các nhà sáng chế phát minh, các nhà hoạch định chính sách, các nhà đạo đức, làm luật, học giả… vẫn cãi cọ bất đồng ý kiến với nhau về vấn đề này. Tất cả tranh luận mà chưa có hồi kết và dĩ nhiên cũng chưa có một tiếng nói chung nào. Duy có một điều là con người không thể thành robot được! Con người là sự kết hợp của thể xác và tâm hồn, nếu con người được cấy chíp vào não để điều khiển tự động hóa, hành xử như người máy thì liệu cái giá trị nhân văn, đạo đức, tư duy, thẩm mỹ… còn là gì?
01/06/202408:42:00
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
31/05/202400:00:00
Việc tu đạo và đạo tu trên quê hương ta, từ lâu, vốn dĩ đã bộc lộ khá nhiều khía cạnh không đáng để nể trọng nhưng phản ứng của cái gọi là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” cùng “Ban Tôn Giáo Chính Phủ” với hành giả khất thực xuyên Việt mới là giọt nước tràn ly, khiến tôi nghĩ đến những ẩn dụ tệ hại nhất. Tôi nghĩ đến Xứ Mù, “The Country of Blind”, tối tăm và cố chấp của Herbert George Wells, nơi con người hoàn toàn không biết và, do đó, không hề tin vào sự tồn tại của ánh sáng và sắc màu nhưng, bù lại, rất giỏi việc đánh hơi, rình mò. Tôi nghĩ đến “Sư Bác Chùa Kênh” của Nhất Linh, cái nhà sư đạo hạnh và uyên thâm Phật học nhưng lại đột ngột dứt bỏ đường tu sau khi được của hoạnh tài. Và tôi nghĩ đến Chí Phèo của Nam Cao, cái nhân vật giết người rồi tự sát sau khi nhận ra rằng mình không thể đi lại từ đầu, như một người lương thiện.
25/05/202406:40:00
Một người luật sư trẻ, sanh ra, lớn lên và vẫn đang sống tại Việt Nam, có lần nói với tôi là khi khai trên giấy tờ, anh luôn luôn điền vào là mình không có tôn giáo, mặc dù gia đình anh và chính bản thân anh theo Đạo Phật, tại nhà anh có ban thờ Phật và anh cũng cố gắng giữ năm giới trong cuộc sống hàng ngày.
24/05/202408:03:00
Câu hỏi “Vì Sao Phật Giáo Suy Giảm?” khởi lên trong khi tôi đọc bài viết nhan đề “Why Actor Michael O’Keefe Renounced His Buddhist Vows” (Tại sao diễn viên Michael O'Keefe từ bỏ lời nguyện Phật giáo của mình?) trên tạp chí Tricycle ngày 22/5/2024. Bởi vì, tôi nghĩ, rất hy hữu để có một Phật tử như Michael O'Keefe, một trí thức Hoa Kỳ tài năng, viết tiểu thuyết, soạn kịch, làm thơ, đóng phim cả trên màn ảnh lớn và TV đều xuất sắc. Để nói cho rõ, anh chỉ rời bộ áo Thiền sư, nhưng không thấy anh nói chuyện rời Phật Giáo. Sau khi đọc bản tin trên, tôi tìm đọc bài viết giải thích chi tiết nhan đề “The Lost Robe” (Bộ Y Đánh Mất) trong ấn bản Mùa Xuân 2024 của Tricycle.
24/05/202400:00:00
Kể về mối quan hệ với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ông Phạm Văn Đỉnh – một nhà vật lý học sống tại Pháp -- nhắc lại một sinh hoạt văn nghệ ở Sài Gòn ở đó nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu “quơ tay chỉ một nhóm văn nghệ sĩ lau nhau”: “Mấy thằng Huế tụi bây, cứ làm văn nghệ cho tao, đừng làm chính trị cho dân nó khổ!” Lời bông đùa này, nếu thật sự xét nét, cũng có thể xem là kỳ thị địa phương nhưng chúng ta không nên quá khắt khe với lời vui của một nghệ sĩ, trong một khung cảnh rất là nghệ sĩ. Mà chúng ta cũng không có quyền chộp lấy như một thứ thước đo chính trị, xã hội và, thậm chí, một thước đo… dân số học. Thế nhưng, càng soi rọi lại những trang sử hiện đại, chúng ta sẽ càng tìm ra những bằng chứng rõ ràng, cả người, cả việc, không thể nào chối cãi.
“Đây là quan điểm của người viết, không nhất thiết là quan điểm của Việt Báo.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.