Hôm nay,  

Đọc Ngô Thì Nhậm: Vạn Pháp Là Một

10/07/202508:01:00(Xem: 2356)
blank 

Đọc Ngô Thì Nhậm: Vạn Pháp Là Một

Nguyên Giác

 

Bài viết này sẽ phân tích lời dạy của sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh về ý chỉ Thiền Tông: vạn pháp đều là một. Sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh là một tác phẩm về Thiền Tông Việt Nam xuất bản lần đầu vào năm 1796. Tác phẩm này được in trong Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V, ấn hành năm 2006 tại Hà Nội, do nhiều tác giả trong Viện Nghiên Cứu Hán Nôm biên dịch.
 

Những lời dạy trong sách này mang phong cách Thiền Tông Việt Nam, vì ngài Ngô Thì Nhậm (1746-1803) khi rời quan trường đã xuất gia, trở thành vị sư có tên là Hải Lượng Thiền Sư, và được nhiều vị sư tôn vinh là vị Tổ Thứ Tư của Dòng Thiền Trúc Lâm. Tất cả các vị sư khác trong sách đều nói trong tông phong này.  Nơi đây, chúng ta trích nơi trang 412, nguyên văn như sau:

 
blank

(Trích)“Trọng Ni nói: "Nhìn từ góc độ khác nhau, thì là gan với mật, như nước Sở với nước Việt vậy (1). Nhìn từ góc độ giống nhau, thì vạn vật đều là một. Cái gì ra từ ở chỗ nào thì cũng đi vào ở chỗ đó, không từ chỗ nào ra mà cũng không đi vào chỗ nào, thế gọi là đại thông (hết sức thông suốt).

CHÚ THÍCH:

(1) Tự kỳ đị giả thị chi, can đảm Sở, Việt dã: Câu này ở thiên Đức sung phù, sách Trang Tử, chứ không phải của Trọng Ni.” (ngưng trích)

 

Chú thích trên là của Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, muốn nói rằng câu trích dẫn trên là của Trang Tử, không phải của Trọng Ni.
 

Nơi đây, chúng ta ghi chú thêm, rằng Trọng Ni chính là tự danh của Khổng Tử – vị có tên thật là Khổng Khâu. Trong truyền thống Trung Hoa, người có học thường có “tự” (tên gọi dùng trong giao tiếp trang trọng), và “Trọng Ni” là cách gọi thể hiện sự kính trọng dành cho Khổng Tử. Khổng Tử không phải là nhân vật thuộc Đạo giáo, mà là người sáng lập Nho giáo. Ông sống vào thời Xuân Thu (551–479 TCN) và được xem là một trong những bậc thầy vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Hoa. Tư tưởng của Khổng Tử nhấn mạnh đạo đức, lễ nghi, nhân nghĩa và giáo dục – khác biệt với Đạo giáo, vốn thiên về tự nhiên, vô vi và huyền học.
 

Tóm gọn ý của Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh nơi đây là: vạn vật đều là một.

Ý chỉ chỗ này dễ nhầm lẫn, nếu nói rằng có một cái gì là một, thì đều không nên. Nếu nói rằng không có gì có thể để gọi là một, hay là hai, hay là nhiều, thì cũng đều không nên. Nói chung, khi dùng tới văn tự là sẽ thấy vương vướng, như dường không ổn, vì cứ tưởng như là có cái gì.
 

Trong bài Bát Nhã Tâm Kinh, câu đầu là nói Sắc chính là Không, và Không chính là Sắc. Khi nhìn tất cả là Không, chúng ta thấy hiển nhiên rằng vạn vật đều là Không. Sắc chính là những gì được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được suy nghĩ tư lường. Khi tất cả là Không, chúng ta có thể tạm gọi vạn vật là một. Ý này nằm trong lời Đức Phật dạy về pháp ấn rằng tất cả hữu vi pháp đều là vô thường, vô ngã, khổ, không.
 

Trong Kinh SN 22.95, Đức Phật giải thích rằng sắc chính là không, rằng sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là như đống bọt, như bong bóng nước, như ráng mặt trời, như cây chuối (lột vỏ không tìm ra tự ngã), như trò ảo thuật. Bản dịch Thầy Minh Châu viết, trích:
 

Ví như, này các Tỷ-kheo, sông Hằng này chảy mang theo đống bọt nước lớn. Có người có mắt nhìn đống bọt nước ấy, chuyên chú, như lý quán sát. Do nhìn chuyên chú, như lý quán sát nó, đống bọt nước ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong đống bọt nước được? Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; vị Tỷ-kheo thấy sắc, chuyên chú, như lý quán sát sắc. Do vị Tỷ-kheo nhìn chuyên chú, như lý quán sát sắc, sắc ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng.” (ngưng trích)
 

Người nào thấy được thực tướng các pháp, sẽ không còn thấy có tướng nam hay tướng nữ hiện lên. Khi tâm chúng ta chỉ thấy các uẩn hiện lên, và không còn thấy tướng nam hay tướng nữ nữa, thì tức khắc sẽ thấy vạn vật là một, hay nói ngược lại cũng đúng, rằng tất cả các pháp đều bất khả đắc. Do vậy, nói cho gọn thì là vạn pháp là một. Nói mặt khác, sẽ nói rằng không một lời nào có thể nói. Chỉ có thể nói rằng, các pháp nó như thế là như thế.
 

Trong Kinh SN 5.2, ghi lại rằng Tỳ kheo ni Soma khất thực ở Sāvatthi xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ kheo ni đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày. Sau khi đi sâu vào rừng, ngài ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày. Ác ma hiện ra chọc ghẹo Tỳ kheo ni Soma.
 

Tỳ kheo ni Soma trả lời, theo bản dịch của Thầy Minh Châu, rằng hễ còn thấy có tướng nam hay tướng nữ là sẽ còn bị rơi vào trò của Ác ma, trích:

Ai tự mình tìm hỏi:

“Ta, nữ nhân, nam nhân,

Hay ta là ai khác?”

Xứng nói chuyện Ác ma,

Ác ma thật cân xứng.

 

Cho nên, thực tướng các pháp chính là Không tướng. Và chúng ta gọi là một thì cũng được, gọi là không thì cũng được. Bát Nhã Tâm Kinh gọi đó là bất dị, tức là không khác. Vậy thì, một hay nhiều đều không có tướng để được thấy. Tương tự, hãy hình dung rằng tất cả hình ảnh xanh đỏ tím vàng, cao thấp vuông tròn đều hiện trước tánh phản chiếu của gương tâm. Các hình ảnh liên tục hiện ra rồi biến mất, nhưng tánh phản chiếu của gương không biến mất theo ảnh, không chạy theo ảnh. Cũng vậy, những âm thanh, tiếng chim kêu, tiếng lá xào xạc liên tục tới bên tai rồi biến mất, rồi khởi lên rồi biến mất. Nhưng tánh nghe của chúng ta không chạy theo các âm thanh biến mất.
 

Có thể gọi tánh phản chiếu của gương tâm là một, khi hiện lên vô lượng ảnh hình. Có thể gọi tánh nghe là một, khi hiện lên vô lượng âm thanh. Nhưng trong tận cùng các pháp, không có một cái gì có thể nắm bắt được, nên gọi là một thì chỉ là tạm gọi. Cũng như cách gọi toàn sóng là nước, toàn tướng là tánh, và ngược lại. Nếu gọi tên nhầm là một pháp gì đó, thí dụ có tướng nam, hay tướng nữ đều là hỏng.
 

Trong tích truyện Kinh Pháp Cú số 43 kể chuyện rằng tướng nam hay tướng nữ chỉ là nghiệp, duyên thôi. Tích truyện tóm tắt như sau: Ngày xưa, tại tu viện Jetavana, Đức Phật kể về Soreyya, con trai một gia đình giàu có. Một hôm, cậu Soreyya đang đi xe ngựa sang trọng thì thấy Tỳ-kheo Mahakaccayana đang chỉnh y phục. Thấy vóc dáng và màu da vàng óng của ngài, cậu Soreyya chợt nảy sinh ý nghĩ sai trái: “Ước gì vị Tỳ-kheo này là vợ mình, hoặc vợ mình có làn da như ngài.” Ngay lập tức, Soreyya biến thành phụ nữ.
 

Xấu hổ, Soreyya bỏ trốn đến Taxila. Tại đây, cô gặp và kết hôn với một thiếu gia giàu có, sinh được hai con trai. Trước đó, khi còn là đàn ông, Soreyya cũng có hai con trai. Một lần, một người bạn cũ từ thành Soreyya đến Taxila. Soreyya nhận ra và mời anh ta đến. Khi biết đây chính là Soreyya đã mất tích, và nghe cô kể lại toàn bộ câu chuyện về ý nghĩ sai lầm và sự biến đổi giới tính, người bạn khuyên cô nên sám hối với Tỳ-kheo Mahakaccayana.
 

Soreyya mời Tỳ-kheo Mahakaccayana đến nhà cúng dường. Sau bữa ăn, cô thành tâm xin lỗi ngài. Tỳ-kheo Mahakaccayana nói: “Đứng dậy, ta tha thứ cho con.” Lập tức, Soreyya trở lại thành đàn ông. Soreyya nhận ra sự vô thường của thân tâm và cuộc sống, xin xuất gia theo Tỳ-kheo Mahakaccayana. Sau này, mọi người thường hỏi anh ta yêu thương những người con nào hơn. Ban đầu, anh nói yêu thương những người con do mình sinh ra hơn. Nhưng sau khi tu tập tinh tấn và đạt được A-la-hán, Soreyya không còn vướng bận tình cảm với bất kỳ ai.
 

Đức Phật xác nhận rằng Soreyya đã nói sự thật. Ngài dạy rằng, nhờ tâm ý hướng thiện, Soreyya đã đạt được trạng thái an lạc mà cha mẹ cũng không thể ban tặng.
 

Nghĩa là, vì chấp vào tướng nam hay tướng nữ, vì bị lôi cuốn bởi nhan sắc của tướng nam hay tướng nữ, chúng ta bị lôi kéo mãi trong cõi này. Cách duy nhất là thấy thực tướng chính là Không tướng, thì mới giải thoát.

Đức Phật cũng dạy rằng không hề có cái gì là tôi, là của tôi. Vậy thì, lấy cái gì để gọi là một hay nhiều. Tương tự, Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy rằng muốn vượt qua dòng sông sinh tử, thì phải thấy tâm mình như con trâu đất, hễ xuống nước là tan ra. Cách nhìn như thế, nếu gọi vạn pháp là một thì chỉ là tạm gọi. Nhưng đúng ra, không một lời nào có thể nói được.
 

Trong Kinh SN 4.19, Đức Phật đối thoại với Ác ma. Kinh ghi lời Ác ma nói rằng, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:

“Này Sa-môn, mắt là của ta, sắc là của ta, thức xứ do mắt xúc chạm là của ta. Này Sa-môn, Ngài có thể đi đâu để thoát khỏi ta? Này Sa-môn, tai là của ta, tiếng là của ta … Này Sa-môn, mũi là của ta, hương là của ta…  Này Sa-môn, lưỡi là của ta, vị là của ta… Này Sa-môn, thân là của ta, xúc là của ta… Này Sa-môn, ý là của ta, pháp là của ta, thức xứ do ý xúc chạm là của ta. Này Sa-môn, Ngài có thể đi đâu để thoát khỏi ta không?”(ngưng trích)
 

Đức Phật trả lời: “—Này Ác ma, mắt là của Ông, sắc là của Ông, thức xứ do mắt xúc chạm là của Ông. Và này Ác ma, chỗ nào không có mắt, không có sắc, không có thức xứ xúc chạm, thời chỗ ấy không có hành xứ của Ông, này Ác ma.” Và tương tự với tai, mũi, lưỡi, thân, ý...
 

Như thế, thấy không một pháp nào là ta, là tôi, là của tôi, là của ta... thì là giải thoát. Tạm gọi là một cũng được, tạm gọi là vô lượng như biển cũng được. Như thế, không thấy có cái gì là ta hay người, thì lấy chỗ nào mà đau khổ nữa.

.

THAM KHẢO:

. Kinh SN 22.95: Thân tâm như bọt sóng, như trò ảo thuật:

https://suttacentral.net/sn22.95/vi/minh_chau

. Kinh SN 5.2, không thấy tướng nam hay tướng nữ:

https://suttacentral.net/sn5.2/vi/minh_chau

. Kinh Pháp Cú, tích truyện 43:

https://www.tipitaka.net/tipitaka/dhp/verseload.php?verse=043

. Kinh SN 4.19: Mắt tai mũi lưỡi thân ý là của ma:

https://suttacentral.net/sn4.19/vi/minh_chau

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
07/06/202404:26:00
Thầy Minh Tuệ là một hiện tượng nổi cộm đã gây xôn xao trong xã hội, trong Phật giáo, lan tỏa ra khỏi ranh giới quốc gia, một hiện tượng mà bản chất không xa lạ đối với Phật giáo và những hệ phái khổ hạnh tại Ấn, là hiện tượng cũng không hiếm tại Việt Nam từng có những vị hành cước tam bộ nhất bái, những vị khổ tu trong các am cốc núi rừng.Tóm lại, thầy Minh Tuệ là một hiện tượng đặc biệt, đặc biệt vì có những hành trạng mà ít ai làm được trong “tứ y pháp”, được cộng đồng mạng đề cao.
07/06/202400:00:00
Năm 2010 tôi về Việt Nam trong một hành trình dài từ Hà Nội đến Sài Gòn. Từ bắc đến Nam, từ phi trường đến bến xe, từ hẻm đến đường phố, bất kỳ nơi nào cũng có bầy chim cánh cụt, nhiều màu, đa số màu đen trắng, đứng từng nhóm, miệng há to, kêu lên khao khát: “Hãy cho tôi rác! Hãy cho tôi rác! Hãy cho tôi rác!” Nhìn chung quanh, dọc đường đi, đất nước tôi vẫn còn nhiều rác, nhưng với tiếng kêu thèm muốn, năn nỉ xin rác đồng loạt khắp nơi kia, chắc chắn dân tôi sẽ nghe. Bắt đầu thay đổi một thói quen phải như vậy. Lòng tôi ấm lại. Một niềm vui phập phồng. Ở đâu có sinh vật, ở đó có rác. Rác là bằng chứng có người. Người tiền sử đã biết xả rác. Xả rác là hành vi bẩm sinh. Không xả rác là hành vi tập quán. Từ hành vi bẩm sinh trở thành thói quen cho đến khi có thể thay đổi để trở thành tập quán ngược lại là một hành trình vô cùng khó khăn, vô cùng khốc liệt, không dễ gì làm được.
05/06/202407:57:00
Lúc đó, bước vào giữa ngôi làng của những người gia chủ Bà La Môn, Đức Phật chỉ nói đơn giản là hãy phát nguyện, hãy giữ hạnh nguyện xa lìa lậu hoặc và hãy “chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu!” Đức Phật đã dạy như thế với các gia chủ Bà La Môn, những người chưa từng quy y và chưa biết gì về Chánh pháp.
03/06/202407:56:00
Thực ra, chúng ta không cần tới “một Phật Giáo” nào khác cho thế gian hay cho xuất thế gian, bởi vì Phật Giáo là Phật Giáo, là con đường Bát Chánh Đạo để giải thoát đã được nói rất minh bạch, không mơ hồ. Bởi vì, nếu biến thể Phật Giáo cho phù hợp với một cộng đồng nào đó, đôi khi sức sống sẽ bị nhạt màu, sẽ mất máu, sẽ trở thành một cái gì khác, rất xa lạ với Phật Giáo.
01/06/202416:07:00
Công nghệ cao là thành tựu của loài người nhưng mặt trái của nó cũng không hề nhỏ và cái hậu quả như thế nào con người cũng chưa lường hết được. Các nhà khoa học, các nhà sáng chế phát minh, các nhà hoạch định chính sách, các nhà đạo đức, làm luật, học giả… vẫn cãi cọ bất đồng ý kiến với nhau về vấn đề này. Tất cả tranh luận mà chưa có hồi kết và dĩ nhiên cũng chưa có một tiếng nói chung nào. Duy có một điều là con người không thể thành robot được! Con người là sự kết hợp của thể xác và tâm hồn, nếu con người được cấy chíp vào não để điều khiển tự động hóa, hành xử như người máy thì liệu cái giá trị nhân văn, đạo đức, tư duy, thẩm mỹ… còn là gì?
01/06/202408:42:00
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
31/05/202400:00:00
Việc tu đạo và đạo tu trên quê hương ta, từ lâu, vốn dĩ đã bộc lộ khá nhiều khía cạnh không đáng để nể trọng nhưng phản ứng của cái gọi là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” cùng “Ban Tôn Giáo Chính Phủ” với hành giả khất thực xuyên Việt mới là giọt nước tràn ly, khiến tôi nghĩ đến những ẩn dụ tệ hại nhất. Tôi nghĩ đến Xứ Mù, “The Country of Blind”, tối tăm và cố chấp của Herbert George Wells, nơi con người hoàn toàn không biết và, do đó, không hề tin vào sự tồn tại của ánh sáng và sắc màu nhưng, bù lại, rất giỏi việc đánh hơi, rình mò. Tôi nghĩ đến “Sư Bác Chùa Kênh” của Nhất Linh, cái nhà sư đạo hạnh và uyên thâm Phật học nhưng lại đột ngột dứt bỏ đường tu sau khi được của hoạnh tài. Và tôi nghĩ đến Chí Phèo của Nam Cao, cái nhân vật giết người rồi tự sát sau khi nhận ra rằng mình không thể đi lại từ đầu, như một người lương thiện.
25/05/202406:40:00
Một người luật sư trẻ, sanh ra, lớn lên và vẫn đang sống tại Việt Nam, có lần nói với tôi là khi khai trên giấy tờ, anh luôn luôn điền vào là mình không có tôn giáo, mặc dù gia đình anh và chính bản thân anh theo Đạo Phật, tại nhà anh có ban thờ Phật và anh cũng cố gắng giữ năm giới trong cuộc sống hàng ngày.
24/05/202408:03:00
Câu hỏi “Vì Sao Phật Giáo Suy Giảm?” khởi lên trong khi tôi đọc bài viết nhan đề “Why Actor Michael O’Keefe Renounced His Buddhist Vows” (Tại sao diễn viên Michael O'Keefe từ bỏ lời nguyện Phật giáo của mình?) trên tạp chí Tricycle ngày 22/5/2024. Bởi vì, tôi nghĩ, rất hy hữu để có một Phật tử như Michael O'Keefe, một trí thức Hoa Kỳ tài năng, viết tiểu thuyết, soạn kịch, làm thơ, đóng phim cả trên màn ảnh lớn và TV đều xuất sắc. Để nói cho rõ, anh chỉ rời bộ áo Thiền sư, nhưng không thấy anh nói chuyện rời Phật Giáo. Sau khi đọc bản tin trên, tôi tìm đọc bài viết giải thích chi tiết nhan đề “The Lost Robe” (Bộ Y Đánh Mất) trong ấn bản Mùa Xuân 2024 của Tricycle.
24/05/202400:00:00
Kể về mối quan hệ với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ông Phạm Văn Đỉnh – một nhà vật lý học sống tại Pháp -- nhắc lại một sinh hoạt văn nghệ ở Sài Gòn ở đó nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu “quơ tay chỉ một nhóm văn nghệ sĩ lau nhau”: “Mấy thằng Huế tụi bây, cứ làm văn nghệ cho tao, đừng làm chính trị cho dân nó khổ!” Lời bông đùa này, nếu thật sự xét nét, cũng có thể xem là kỳ thị địa phương nhưng chúng ta không nên quá khắt khe với lời vui của một nghệ sĩ, trong một khung cảnh rất là nghệ sĩ. Mà chúng ta cũng không có quyền chộp lấy như một thứ thước đo chính trị, xã hội và, thậm chí, một thước đo… dân số học. Thế nhưng, càng soi rọi lại những trang sử hiện đại, chúng ta sẽ càng tìm ra những bằng chứng rõ ràng, cả người, cả việc, không thể nào chối cãi.
“Đây là quan điểm của người viết, không nhất thiết là quan điểm của Việt Báo.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.