Hôm nay,  

Song ngữ: The Six Marvelous Dharma Gates / Sáu Pháp Môn Mầu Nhiệm

29/06/202311:07:00(Xem: 4128)
blank 

Sáu Pháp Môn Mầu Nhiệm

 

Thích Thái Hòa

 

Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.

 

- Sổ tức môn:

Đây là pháp môn nhiếp phục phiền não nơi tâm, hay các vọng niệm nơi tâm bằng cách đếm hơi thở. Thở vào và ra thong thả, rồi bắt đầu đếm hơi thở từ một đến mười và ngược lại từ mười xuống một với ý thức rõ ràng không lầm lẫn. Ta có thể đếm từ một đến mười và từ mười xuống một nhiều lần. Nhờ vậy, những phiền não hay vọng niệm sinh khởi nơi tâm đều được nhiếp phục, khiến tâm ta được định tĩnh, sáng trong không còn bị phiền não khuất che.

 

- Tùy tức môn:

Đây là pháp môn theo dõi hơi thở vào và ra, dài và ngắn, nhanh chậm, sâu cạn. Nghĩa là ý thức của ta bám lấy và theo dõi hơi thở vào ra, dài ngắn, nhanh chậm, sâu cạn một cách đơn thuần. Nhờ vậy, những phiền não hay vọng niệm nơi tâm ta lắng xuống, khiến tâm ta định tĩnh sáng trong không còn bị phiền não khuất che.

  

- Chỉ môn:

Chỉ, tiếng Phạn gọi là śamatha, Hán phiên âm là xa ma tha. Đây là pháp môn buông bỏ và dừng lại. Nghĩa là ý thức không bám sát và theo dõi hơi thở nữa, mà dừng lại và đồng nhất với tâm tĩnh lặng, các phiền não hay các vọng niệm trên tâm hoàn toàn ngưng lắng, không còn làm cho tâm thức lay động, khiến tâm ta ở vào trạng thái, ngưng lắng, an tịnh của thiền định.

 

- Quán môn:

Quán, tiếng Phạn gọi là vipaśyanā và Pāli là vipassāna, Hán phiên âm là tỳ bà xá na. Quán là nhìn sâu vào đối tượng để thấy rõ bản chất, hay tác nhân, tác duyên của chúng.

Nên, chỉ là ý thức dừng lại ở nơi đối tượng và quán là nhìn sâu vào đối tượng để thấy rõ bản chất và nhân duyên sinh khởi của chúng để chuyển hóa. Chỉ là ôm lấy phiền não, hay gom phiền não lại ở một điểm và quán là thắp sáng ý thức rọi vào nơi khối phiền não đã gom lại ấy, khiến cho phiền não tự chuyển hóa dần, phiền não càng chuyển hóa thì tâm minh giác càng hiện ra.

 

Chỉ là tâm tự lắng yên và quán là từ nơi tâm lắng yên mà tự chiếu dụng. Chỉ ví như nước trong, gương sáng; quán là từ nơi nước trong, gương sáng ảnh tượng của muôn vật hiện ra. Nên, chỉ và quán tuy là hai pháp môn, nhưng đồng nhất một thể tính tịch chiếu.

Ở trong Tam vô lậu học, chỉ thuộc về giới và định, còn quán thuộc về tuệ. Và đối với Ngũ căn, Ngũ lực trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tín căn – tín lực; tấn căn – tấn lực; niệm căn – niệm lực; định căn – định lực liên hệ đến chỉ và tuệ căn – tuệ lực liên hệ đến quán.

Do đó, chỉ và quán thường hỗ trợ và tương dung nhất thể với nhau trong một pháp hành.

 

- Hoàn môn:

Đây là phương pháp thiền quán phản chiếu lại tâm. Dùng trí quán quay nhìn lại nơi tâm ta để thấy cái gì nơi tâm ta tạo ra sự quán chiếu. Từ đó nhận ra tâm thể không có tự ngã. Nghĩa là thấy tâm rỗng lặng không có chủ thể nào tạo ra sự quán chiếu. Chủ thể vốn hư ngụy, do tưởng giả lập mà hoàn toàn không có thật chất, khiến mọi ngã tưởng hiện khởi nơi tâm tự lắng yên, các pháp vô lậu, giải thoát nơi tâm tự chiếu sáng. Tâm sáng trong, vì do sự chấp ngã không còn, chứ không có chủ thể nào làm cho tâm sáng lên cả. Nên, hoàn môn là pháp thiền quán phản chiếu lại tâm, để thấy rõ bản thể của tâm vốn rỗng lặng, không có ngã thể, không có tự tánh. Nhờ vậy mà trí tuệ vô lậu giải thoát phát sinh.

 

-Tịnh môn:

Phương pháp lắng yên, tâm ở vào trạng thái hoàn toàn thanh tịnh. Nghĩa là tâm không còn bất cứ tác ý vọng tưởng nào đối với các hình thái của ngã. Nhờ vậy, các loại phiền não chướng và sở tri chướng nơi tâm tự lắng yên, các mê lầm do tư duy hoàn toàn dứt bặt, bản tính chân thật của tâm hiện ra một cách tự nhiên và trí tuệ vô lậu từ nơi tâm chân thật tự tỏa sáng.

Nếu thực tập sáu pháp môn nầy thuần thục, thâm diệu, ta có thể thành tựu được giới định tuệ. Và cũng từ nơi giới định tuệ mà đạt tới cứu cánh Niết bàn của chư Phật.

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/a18895/sau-phap-mon-mau-nhiem

 

.... o ....

 

Bilingual: The Six Marvelous Dharma Gates / Sáu Pháp Môn Mầu Nhiệm

 

 

Author: Thích Thái Hòa

Translated by Nguyên Giác

 

 

The six marvelous Dharma gates, known in Chinese [and Vietnamese] as "Lục diệu pháp môn," refer to the six methods of meditation practice that assist us in entering the doorway of calm abiding and wisdom to go on the path to liberation or Nirvana.

 

The gate of counting breaths

Counting breaths is a technique for cleansing the mind of impurities and removing unwanted thoughts. Breathe in and out gently, then begin to count the breaths from one to 10 and vice versa with unequivocal clarity. You can count from one to ten, and from ten to one many times. As a result, the afflictions or delusions that arise in the mind are quieted, leaving your mind tranquil, clear, and free of defilements.

 

The gate of following the breaths

This is a method of paying attention to and noticing when the breath is in and out, when the breath is long and short, when the breath is fast and slow, and when the breath is deep and shallow. It means that you pay close attention to and follow the breath at all times, whether the breath is in and out, long and short, fast and slow, deep and shallow. As a result, the afflictions or delusive thoughts in your mind dissipate, leaving your mind tranquil and clear, free of defilements.

 

The gate of calm abiding

Calm abiding in Sanskrit is called Samatha. In Vietnamese, it is known as "chỉ." This is a meditation practice of mindfully letting go and halting all mental processes. That is, your mind no longer pays attention to and follows the breath, but instead mindfully pauses all activities and becomes a calm mind, at which point the defilements or delusive thoughts on the mind are completely quiet, no longer arising in your mind, leading your mind to a calm, peaceful, alert state of meditation.

 

The gate of insight

In Sanskrit, insight is known as vipasyana, while in Pali, it is known as vipassana. In Vietnamese, it is known as "quán." 'The gate of insight' is to look deeply into objects to see clearly their nature, agents, and conditions. So, while 'the gate of calm abiding' is keeping the mind fixed on the object, 'the gate of insight' is looking deeply into the object to see clearly its nature and the conditions to transform the perception to see the truth. While ‘the gate of calm abiding’ gathers the defilements in one place and makes them peaceful, ‘the gate of insight’ illuminates the consciousness where the defilements have accumulated, causing the defilements to transform on their own. The more defilement is transformed, the more clearly liberated wisdom will appear.

 

Hence calm abiding arises when the mind is still, and insight arises when the mind is still and illuminating usefully. Calm abiding is like a clear and still body of water, or a clear and shining mirror; Insight is the reflection shining out of a clear and still body of water, like a brilliantly shining mirror in which all things appear. So, calm abiding and insight are two dharma gates, but they have the same nature of calming and shining.

 

In the Threefold Training, calm abiding belongs to the training for Virtue and Concentration, while insight belongs to the training for Wisdom. In the Thirty-seven Limbs Of Enlightenment, the training of calm abiding related to the four first parts of the Five Spiritual Faculties and also the four first parts of the Five Strengths, while the training of insight related to Wisdom, the last part of both the Five Spiritual Faculties and the Five Strengths. Thus, calm abiding and insight mutually support each other in practice.

 

The gate of reflecting inwardly

This is a meditation technique in which you observe and look back into your thoughts to discover if there is any source in your mind that would create the insight and the reflection. Then you realize that there is no such thing as a self in the mind; that is, your mind perceives that your mind is empty, peaceful, and devoid of any source that would create the insight and the reflection. Thus, your mind is totally insubstantial, causing all self-perceptions to vanish in the mind, immaculate dharmas to be enlightened, and liberating dharmas to be present in the mind. Your mind is currently clear and pure because there is no self-attachment and non-self exists in the mind's clear mirror. As a result, "The Gate of Reflecting Inwardly" is a meditation technique that reflects the mind, allowing one to see clearly the substance of the mind, which is empty and peaceful, has no self, and has no self-nature. And then the wisdom of liberation arises.

 

The gate of purifying

This is a meditation state in which your mind is peaceful, quiet, and completely pure. This means that ideas about any form of self no longer arise in your mind. In this way, the hindrances of afflictions and cognitive obstructions in the mind settle down, the delusions generated by thinking are entirely vanished, the genuine nature of the mind arises spontaneously, and spotless wisdom naturally shines from the true mind.

 

If you practice these Six Marvelous Dharma Gates well and profoundly, you will complete the three-fold training of virtue, concentration, and wisdom. And the three-fold training of virtue, concentration, and wisdom will lead you to the ultimate Nirvana of the Buddhas.

 

 

.... o ....



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
23/12/202518:00:00
J471. Mendaka Jātaka -- Chuyện một con chó và một con dê dựa vào nhau để sống. Tóm tắt: Đức Phật kể một câu chuyện về một con chó bị bắt quả tang ăn trộm thịt và một con dê bị bắt quả tang ăn trộm cỏ. Hai con vật đã lập một thỏa thuận hợp tác với nhau, vì biết rằng sẽ không ai nghi ngờ một con dê ăn trộm thịt hay một con chó ăn trộm cỏ. Chỉ có vị hiền nhân Mahosadha mới có thể làm sáng tỏ bí ẩn về việc chúng đã trở thành bạn bè như thế nào.
20/12/202508:12:00
J461. Dasaratha Jātaka -- Mọi người, dù trẻ hay già, giàu hay nghèo đều sẽ chết; thương khóc chỉ làm suy sụp người sống, và không mang người chết trở lại. Tóm tắt: Một cư sĩ mất cha, nên vô cùng đau khổ. Đức Phật kể một câu chuyện về một vị hoàng tử thời xưa, để tránh xung đột, đã lui về vùng núi chờ đợi cái chết của cha mình. Khi tin tức đến, vị hoàng tử không hề đau buồn, vì hiểu rằng tất cả đều phải chết.
19/12/202500:00:00
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
16/12/202518:33:00
J451. Cakka-Vaka Jātaka -- Để có tình yêu và kính trọng, cần từ bỏ ham muốn có hại, tránh làm khổ người khác, và phải sống từ bi và giới hạnh. Tóm tắt: Một vị sư tham lam thường xuyên bị các vị sư khác nhắc đến. Đức Phật đã kể một câu chuyện ngụ ngôn về một con quạ cố gắng thử nhiều loại thức ăn khác nhau để tỏ ra hơn người, nhưng một con ngỗng đã dạy cho nó rằng đức hạnh, chứ không phải thức ăn, mới làm cho người ta trở nên đáng yêu.
13/12/202514:33:00
J441. Catu-Posathika Jātaka -- Hãy giữ 4 phẩm tính: kiên nhẫn khi bị khiêu khích, tự chủ khi đối mặt với cám dỗ, khả năng từ bỏ thú vui và giải thoát khỏi phiền nhiễu thế gian. Tóm tắt: Các nhà sư đang thảo luận về trí tuệ của Đức Phật. Đức Phật kể một câu chuyện về bốn vị thí chủ, sau khi biết về các cõi trời khác nhau, đã được tái sinh vào những cõi đó. Vào một ngày chay tịnh, tất cả họ tụ tập tại một công viên để trì giới và tìm cách xác định xem ai trong số họ là người có đức hạnh nhất. Câu hỏi này cuối cùng đã được giải đáp bởi bậc hiền triết Vidhura.
09/12/202503:52:00
J431. Harita Jātaka -- Tham đắm có thể chế ngự ngay cả những người học rộng và sức định sâu. Tóm tắt: Một nhà sư chuẩn bị hoàn tục sau khi gặp một phụ nữ xinh đẹp. Đức Phật kể câu chuyện về một nhà khổ hạnh bị mê hoặc khi nhìn thấy hoàng hậu khỏa thân, nhưng vị này không thể lừa dối nhà vua về điều đó, và cuối cùng đạo sĩ đã vượt qua được cơn mê của mình như thế nào.
05/12/202507:20:00
J421. Gangamala Jātaka -- Lời Nguyện Nửa Ngày: Câu Chuyện về Công Đức Tóm tắt: Đức Phật khuyên người tại gia nên giữ ngày chay tịnh. Sau đó, Ngài kể câu chuyện về một người nhịn ăn nửa ngày và được tái sinh làm vua. Vị vua này đã rộng lượng chia sẻ vương quốc của mình cho một người lương thiện, người sau này đã từ bỏ cuộc sống thế tục và trở thành một vị Phật Độc Giác.
02/12/202515:39:00
J411. Susima Jātaka -- Cuộc sống trong nhà đầy những đau khổ. Tóm tắt: Các vị sư thảo luận về sự xuất gia vĩ đại của Bồ Tát. Đức Phật kể câu chuyện về một vị tư tế được giao cai quản một vương quốc. Ngài đã trị vì một cách trung thành cho đến khi hoàng hậu chỉ ra một sợi tóc bạc, khiến ngài từ bỏ ngai vàng và sống cuộc đời của một nhà tu khổ hạnh.
29/11/202504:26:00
J401. Dasannaka Jātaka -- Sau khi hiến tặng, bố thí một thứ gì, đừng cảm thấy hối tiếc. Tóm tắt: Một vị sư đứng trước nguy cơ từ bỏ cuộc sống tu hành vì những ám ảnh dai dẳng về người vợ cũ. Để giúp ông, Đức Phật đã kể một câu chuyện về một vị vua đã gả vợ mình cho một người đàn ông khác, nhưng rồi nàng lại bỏ trốn cùng người đàn ông đó. Nhà vua rơi vào tuyệt vọng cho đến khi một người đàn ông chứng minh sự nghiêm khắc trong hành động của nhà vua bằng cách nuốt một thanh kiếm. Chứng kiến điều này, nỗi nhớ nhung vợ của nhà vua đã tan biến.
26/11/202507:26:00
J391. Dhajavihetha Jātaka -- Bất kỳ ai tôn kính một vị thánh thực sự sẽ được tái sinh trên thiên đường sau khi chết. Tóm tắt: Các nhà sư thảo luận về những nỗ lực của Đức Phật trong việc giúp đỡ và cứu độ chúng sinh. Đức Phật kể một câu chuyện về việc một vị khổ hạnh bất lương đã khiến tất cả các vị khổ hạnh bị trục xuất khỏi vương quốc, và vua trời Sakka đã phát hiện ra kẻ làm điều sai trái, dẫn đến việc những người khác được phục hồi địa vị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.