Hôm nay,  

Song ngữ: Last day of life: preaching the Dharma to Mom / Ngày Cuối Cho Mẹ

25/08/202315:43:00(Xem: 3360)
blank

Ngày Cuối Cho Mẹ

 

Hạnh Chiếu

 

Thánh sử đi qua cuộc đời của những bậc Thánh tăng để lại những bài kinh bất diệt trong lòng thế gian sanh diệt. Đạo Phật vì thế đã trở thành lẽ sống, thành suối nguồn vi diệu, tái tạo và nuôi dưỡng những mảnh đời, tưởng chừng như không gì có thể cứu rỗi.

 

Có những câu chuyện ta cứ ngỡ đã đi qua mất rồi nhưng thật ra nó vẫn còn đọng lại trong trái tim con người, nấc lên những rúng động ngàn năm. Đó là câu chuyện của vô lượng vô lượng Đức Phật, của Mục-kiền-liên, của Xá-lợi-phất, của tất cả những ai có mẹ có cha, có trái tim biết rụng về nguồn cội thiêng liêng.

 

 Ráng chiều không dám lướt nhanh trên bầu trời Nàlakà, bởi vì ở đây, tất cả như đang dừng lại chờ đợi một bóng hình rất thân. Người trở về. Sẽ ở lại nơi này vĩnh viễn hay tiếp tục ra đi? Không ai dám nghĩ tới. Đoàn Sa-môn cứ lẳng lặng bước theo sau Tôn giả, mặc dù Ngài đã nhiều lần khẩn khoản khước từ. Chẳng ai muốn quay về, chẳng ai không dán mắt vào từng bước chân già cỗi của Tôn giả trên con đường quê. Sanh lão bệnh tử đổ xuống đời người bất dung tình, cho dù đó là bậc Thánh tăng. Vận hết thần lực, Tôn giả cố gắng duy trì mạng căn, về cho kịp tới nhà. Bởi vì ở đó có mẹ già.

 

 Mẹ ngài là một tín đồ Bà-la-môn giáo, rất không thích Đức Phật và Tăng đoàn. Bà tức giận khi Ngài xuất gia theo Phật biết bao nhiêu. Sau đó, cứ mỗi lần nhớ con bà thiết trai cúng dường. Gặp con bà uất ức nguyền rủa. Xa con bà nhớ mong trông đợi. Đó là chuỗi nhân duyên lạ lùng của hai mẹ con Ngài. Cho nên Tôn giả biết rất rõ, ngoài Ngài ra không ai có thể độ mẹ thoát khỏi khổ hình. Nghe tin con trai về, bà ngạc nhiên “Ông con này, sao nay lại về?”. Rồi vẫn như mọi khi, bà vừa càm ràm, vừa tất bật đón Tôn giả và các bậc Thánh tăng.

 

 Tuy nhiên, lần này Xá-lợi-phất đòi mẹ phải dọn phòng cũ, nơi ngày xưa Tôn giả chào đời. Bà cũng thuận theo, trong lòng chẳng nghĩ ngợi chi. Thế là Ngài tĩnh tọa suốt đêm trong phòng, chư thiên lần lượt kéo đến đảnh lễ, ánh sáng chói tỏa, Kàlakà tràn ngập trong biển hào quang, khiến cho mẹ ngài hoảng kinh. Bà tìm đến và chiêm ngưỡng, thấy Tôn giả Xá-lợi-phất an định trong từng hơi thở. Thật khẽ, thật nhẹ, thật khinh an. Bà nhìn mãi không thôi, tâm mắt chẳng rời.

 

Từ trong chánh định, Tôn giả dùng tuệ nhãn xem thấy căn cơ của mẹ đã thuần thục. Thế là Ngài xuất định, vì mẹ thuyết pháp. Nghe xong, bà phát khởi lòng tin chân chánh, quy hướng Thế Tôn, quy hướng Tam bảo, tà kiến chóng dứt, thân an tâm lạc, vào được Sơ quả Tu-đà-hoàn. Ngay khi lão mẫu vừa sanh vào dòng thánh, Tôn giả Xá-lợi-phất lặng lẽ thu thần nhập diệt. Hoành tráng. Diễm lệ.

 

 Tròn đầy. Một sự viên tịch hiếu đạo lưỡng toàn. Thì ra, nơi bậc đại trí tuệ không chỉ có tình mẹ, mà còn hơn cả tình mẹ - tình thương vô nhiễm, vô ưu.

 

 Cả một đời theo Phật thuyết pháp độ sanh, Tôn giả đã vâng lệnh Thế Tôn rống tiếng sư tử, độ vô lượng chúng sanh. Cho tới giây phút cuối cùng, trước khi giã từ cõi mộng, Ngài đã rống lên tiếng rống vang dội nhất, chấn động nhất. Bởi vì ở đó động đến trái tim của mẹ, đang từng phút từng giây, chờ đợi nhịp đập quả tim con, dẫn máu chảy về nguồn. Đại địa chấn động, mây mù ảm đạm, muông thú kêu vang, buồn thương bậc Đại trí tuệ đã rời xa thế gian. Nhưng đó lại là giây phút Tôn giả vui mừng nhất vì đã làm được công việc sau cùng, độ mẹ thoát khỏi trầm luân.

 

 Toàn bộ cuộc đời của Ngài không bỏ sót một hạnh nguyện nào. Vị đệ nhất thượng thủ Thánh đệ tử của Đức Phật, xứng đáng cho đời đời thế hệ Tăng lữ noi theo, độ tận chúng sanh mới vào Niết-bàn, trong đó nhất định có cha và mẹ. Nếu đem cuộc đời của Tôn giả Xá-lợi-phất lồng vào cuộc đời của tôn giả Mục-kiền-liên thì thật là vừa vặn làm sao. Mỗi ngài một sự thị hiện, bổ sung kiện toàn cho nhau một cách khít khao. Một bà mẹ còn tại thế, một bà mẹ đã qua đời, cả hai đều nhờ lòng đại hiếu của con mà vượt qua ách nạn.

 

 Có phải chúng ta cũng là người con Phật? Trong trái tim mình hẳn có đấng song thân? Cho nên bằng mọi cách hãy quay về chăm sóc cha mẹ. Trong tinh thần đạo pháp và hiếu hạnh của người xuất gia. Đừng để quá muộn màng. Có một điều chúng ta cũng chớ quên, đó là muốn kịp quay về với cha mẹ, trước nhất hãy quay về với chính mình. Có những bước chân quên mất đường về. Có những bước chân đã biết đường về mà không chịu về. Cung đường nào chắn ngang? Ma mị nào dẫn lối? Rồi ra, cũng sáu nẻo luân hồi mà thôi.

 

 Hãy như Tôn giả Xá-lợi-phất quay về lo cho mẹ trước khi người qua đời. Hay như Tôn giả Mục-kiền-liên lặn tận đáy sâu của tâm thức tìm mẹ, khi người đã qua đời. Nên nhớ là hai ngài đã chứng Thánh, chúng ta thì chưa. Khác nhau rất xa. Cho nên phải ráng tu trước cái đã. Người tu cần lắm đạo lực. Cha mẹ nhất định sẽ cộng hưởng theo. Ngày cuối cho mẹ, xin chờ tất cả chúng con.

 

Hạnh Chiếu

Thiền Viện Thường Chiếu

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/a17935/ngay-cuoi-cho-me

 

.... o ....

 

Last day of life: preaching the Dharma to Mom

 

Author: Hạnh Chiếu

Translated by Nguyên Giác

 

The historical accounts of the lives of the holy monastics have left enduring teachings in the hearts of those living in the realm of birth and death. Since its inception, Buddhism has become a guiding principle for many, serving as a profound source of inspiration and transformation for sentient beings who once believed that there was no escape from suffering.

 

There are stories that we thought would be forgotten after experiencing them, but in reality, they continue to reside in people's hearts, resonating with the echoes of thousands of years. These are the stories of countless Buddhas, including Muggallana and Sariputra, as well as all those who have mothers and fathers and whose hearts know how to turn to the divine source.

  

At that time, the afternoon sun hesitated to swiftly glide across the sky of Nàlakà because everything here appeared to come to a halt, eagerly anticipating the arrival of a very familiar figure. Returnee, would he stay here forever or continue to leave? No one dared to think. The group of monastics quietly followed the Senior Venerable, even though he repeatedly implored them not to. No one wanted to go back; everyone's eyes were fixed on every step of the Senior Venerable on the country road. Birth, old age, sickness, and death fell brutally into the lives of people, even saintly monks. Trying his utmost, the Senior Venerable attempted to preserve his life in order to return home on time. Because his elderly mother was there.

 

The Senior Venerable's mother was a Brahmin believer who strongly disliked the Buddha and the Sangha. She was furious when her son left home to follow the Buddha. Then, every time she missed her son, the old woman performed an offering ceremony. Every time she saw her son again, the old woman was resentful and cursed. But when she was away from her son, she missed him and waited for him to return. That is the strange chain of predestined relationships between the old woman and her son. So the Senior Venerable knew very well that no one but himself could save the old woman from future karmic suffering. When she heard that her son had returned, the old woman was surprised. "Son, why have you returned home?" Then, as always, she grumbled and busily welcomed her son, the Senior Venerable, and other holy monastics.

  

This time, however, Sariputra insisted that his mother tidy up the old room where he had been born. The old woman also agreed without hesitation in her heart. So, while the Senior Venerable meditated all night in his room, heavenly beings came to pay their respects. They illuminated the whole city of Kalakà, filling it with a sea of light and causing the monk's mother to panic. The old woman came and admired Sariputra, noticing his calm demeanor with each breath. The scene around him was gentle, fragile, and peaceful. The old woman kept looking at her son in the sea of light, her eyes never wavering.

 

With deep concentration, the Senior Venerable utilized his wisdom eye to perceive that his mother's faculties had already reached maturity. So the Senior Venerable came out of meditation and began preaching the Dharma to his mother. After hearing the teachings, the old woman developed genuine faith and sought refuge in the Blessed One and the Three Jewels. As a result, her erroneous beliefs ceased, and she experienced a sense of peace in both her body and mind. She also attained the stage of stream-enterer. As soon as the old woman was born into the noble lineage, Sariputra peacefully entered Nirvana. So monumental. So magnificent.

 

Perfection. Complete filial piety before a noble death. It has been found that individuals with profound wisdom not only love their mothers, but they also strive to elevate their mothers to a state of purity, free from suffering.

  

For a lifetime, the Senior Venerable followed the Buddha's footsteps in preaching the Dharma to save sentient beings. He obediently carried out the World Honored One's command to roar like a lion, thus saving countless sentient beings. Until the very last moment, before departing from the realm of dreams, he let out the loudest and most startling roar. Because his voice touched his mother's heart, who anxiously awaited her son's heartbeat and felt the blood flowing back to its origin. The great earthquake shook, the clouds were gloomy, and the animals cried, mourning for the great wisdom who had departed from the world. But that was the moment when the noble monk was happiest because he had taken the final action of saving his mother from Samsara.

  

Throughout his entire life, he never broke a single vow. The first and foremost noble disciple of the Buddha has been worthy of eternal admiration from generations of monks who followed, as he sought to save all sentient beings and lead them to Nirvana, including his own parents. If we were to merge the lives of Venerable Sariputra and Venerable Moggallana, how fitting it would be! Each of them is a manifestation, complementing each other closely. A mother was saved while still alive, and another mother was saved after death, both thanks to the great filial piety of their children, who helped them cross the river of suffering and reach the other shore.

  

Are we also children of Buddha? In our hearts, we must have love for our father and mother. So, by all means, go back to taking care of your parents in the spirit of Dharma and the filial piety of the monastic tradition. Don't let it be too late. One thing we must not forget is that if we want to help our parents in time, we must first save ourselves. There are steps that forget the way home. There are footsteps that know the way back home but refuse to return. Which road is blocked by a barrier? Which Mara leads the wrong way? Just one wrong step will lead to the six realms of Samsara.

  

Do as Venerable Sariputra, who returned to take care of his mother before she died. Or like Venerable Moggallana, who dived to the depths of his mind to find his mother when she had passed away. Remember that both of them have reached the highest level of nobility, while we have not. Very different. So, try to practice diligently first. The practitioners need a lot of powerful cultivation that will resonate and have an impact on our parents. The last day of a practitioner should be spent with his or her mother. Dear Mom, please wait for your children.

 

Hạnh Chiếu

Written at Thiền Viện Thường Chiếu

 

.... o ....




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
01/09/202508:53:00
J81. Surapana Jātaka -- Câu chuyện về Trưởng lão Sagata và sự nguy hiểm của chất kích thích Tóm tắt: Một vị sư, mặc dù sở hữu thần thông vĩ đại, đã bị hạ gục bởi rượu mạnh. Đức Phật kể lại rằng cả một nhóm tu sĩ khổ hạnh đáng kính trong quá khứ cũng đã mất đi thần thông vì rượu.
29/08/202509:54:00
J71. Varana Jātaka -- Truyện về Trưởng lão Tissa, con trai của một vị điền chủ Tóm tắt: Một vị sư, đáng lẽ phải đang nỗ lực, đã ngủ quên và bị gãy xương đùi sau khi ngã. Đức Phật kể một câu chuyện từ kiếp trước, trong đó chính vị sư này đã ngủ quên trong giờ làm việc, và khi thức dậy, mắt bị thương và mang về một khúc gỗ xanh, khiến các bạn đồng hành không được ăn.
27/08/202514:07:00
J61. Asatamanta Jātaka -- Cuộc sống thế tục rất nguy hiểm. Tóm tắt: Một vị sư trẻ, bị thôi thúc bởi ham muốn sắc dục với một thiếu nữ, đang trên bờ vực từ bỏ cuộc sống tu hành. Đức Phật kể một câu chuyện từ quá khứ minh họa cho sự độc ác
25/08/202510:47:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J51. Mahasilava Jātaka -- Vị Vua Không Bao Giờ Bỏ Cuộc Tóm tắt: Một vị sư từ bỏ sự nỗ lực. Để khích lệ ông, Đức Phật kể câu chuyện về một vị vua thời xưa, người đã kiên trì thực hành lòng từ bi ngay cả khi bị đe dọa đến tính mạng—cách ông thoát khỏi việc bị chôn vùi trong nghĩa địa, giải quyết một cuộc tranh chấp giữa hai Dạ Xoa
23/08/202510:43:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J41. Losaka Jātaka -- Chuyện về nhà sư trọn đời thiếu ăn, trừ ngày cuối đời. Tóm tắt: Trưởng lão Xá Lợi Phất gặp một cậu bé nghèo và truyền giới cho cậu. Bất chấp những bất hạnh trong cuộc sống tại gia và sự đấu tranh không ngừng để có đủ thức ăn, cuối cùng cậu đã đạt được quả vị A La Hán. Đức Phật kể lại một câu chuyện quá khứ, trong đó một người đàn ông đã ngăn cản một vị A La Hán nhận thức ăn. Kết quả là, trong mỗi kiếp sống tiếp theo, vị ấy đều gặp bất hạnh. Tuy nhiên, trong kiếp sống cuối cùng, nhờ thiền định về ba đặc tính, ngài đã đạt được sự giải thoát
22/08/202519:01:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J31. Kulavaka Jātaka -- Truyện về Lòng từ bi và năm giới Tóm tắt: Một vị sư, vì khát nước, đã giết hại chúng sinh bằng cách uống nước chưa lọc, điều này trái với quy định của giáo đoàn. Khi nghe chuyện này, Đức Phật kể một câu chuyện về việc Sakka, Vua của chư Thiên, đã tránh làm hại chúng sinh và nhờ đó đã chiến thắng cuộc chiến giữa chư Thiên và A-tu-la.
21/08/202510:33:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J21. Kurunga Jātaka -- Khi Devadatta là một thợ săn và Bodhisatta là một con linh dương. Tóm tắt: Các nhà sư nói chuyện về Đề Bà Đạt Đa và những cuộc tấn công của ông này nhắm vào Đức Phật. Đức Phật giải thích rằng Đề Bà Đạt Đa đã hành động tương tự trong những kiếp trước và kể một câu chuyện về một con linh dương khôn ngoan đã thoát khỏi sự hủy diệt của thợ săn nhờ đọc được những dấu hiệu.
19/08/202509:22:00
Bản Sanh: truyện 11 tới 20 / Jataka Tales: Stories 11–20 Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J11. Lakkhana Jātaka -- Con nai may mắn Tóm tắt: Đề Bà Đạt Đa ra đi cùng 500 đệ tử, và Đức Phật đã phái Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đến để đưa họ trở về. Sau đó, Đức Phật kể một câu chuyện về việc trong quá khứ, Đề Bà Đạt Đa, vì bất cẩn, đã đánh mất đàn gia súc mà ông đang chăn dắt, trong khi Xá Lợi Phất đã cứu sống tất cả.
16/08/202511:40:00
Lời Dịch Giả: Để giúp giới trẻ Việt Nam có thể dễ dàng học căn bản Phật pháp, các truyện Bản sanh nơi đây sẽ được rút ngắn và viết lại cho đơn giản trong song ngữ Việt -Anh. Dịch giả hy vọng các truyện Bản sanh song ngữ sẽ giúp cho quý tăng ni, giáo viên, và Phật Tử có thêm một phương tiện mới để hoằng pháp. Nguồn sẽ dựa theo bản tiếng Anh của 547 truyện Jataka trên mạng SuttaCentral
07/08/202507:21:00
Lời dịch giả: Bài viết sau đây ký tên tác giả là Sa Môn Tố Liên, đăng trên Báo Đuốc Tuệ, ấn bản tháng 7 năm 1936. Hòa thượng Thích Tố Liên (1903 – 1977), thế danh Nguyễn Thanh Lai, sinh năm Quí Mão (1903), tại tỉnh Hà Đông. Xuất thân trong một gia đình Nho giáo. Ngài xuất gia năm 13 tuổi tại chùa Hương Tích, là đệ tử của Tổ Thanh Tích. Với tính cương trực, năng động, mặc dù được chọn làm trưởng pháp tử kế vị chùa Hương Tích, song Ngài quyết tâm du phương tham học nơi các đạo tràng danh tiếng như Đào Xuyên, Tế Xuyên, Bằng Sở, Vĩnh Nghiêm… và đã từng trú trì ở chùa Côn Sơn, Thanh Mai.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.