Hôm nay,  

Đức Phật dạy cách nhìn thấy những gì Ma đã tạo ra, và cách để thoát lưới Ma

15/11/202408:00:00(Xem: 2895)
Đức Phật dạy cách nhìn thấy
những gì Ma đã tạo ra,
và cách để thoát lưới Ma

 
Tâm Kinh viết rằng sắc tức là không, và không tức là sắc; sắc không khác không, và không chẳng khác sắc. Lời dạy đó đã được diễn tả trong nhiều cách xưa cổ hơn trong nhiều kinh Nikaya và A Hàm.

Bài sau đây sẽ viết theo Kinh SA 120 (qua bản dịch tiếng Việt của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Thích Đức Thắng, bản dịch tiếng Anh của Bhikkhu Anālayo), Kinh SN 23.1, và Kinh SN 5.2 (qua bản dịch tiếng Việt của Thầy Thích Minh Châu, bản dịch tiếng Anh của Bhikkhu Sujato).

Đức Phật nói với ngài  Rādha như sau.
Hãy quán sát rằng chính Ma đã tạo ra những gì được gọi là sắc -- nghĩa là sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp -- cho dù là trong quá khứ, vị lai hay hiện tại; cho dù là trong, hoặc ngoài; cho dù là  thô, hoặc tế; cho dù là  tốt, hoặc xấu; cho dù là  xa, hoặc gần.

Tương tự, hãy quán sát rằng chính Ma đã tạo ra những gì được gọi là thọ, tưởng, hành, thức -- cho dù là trong quá khứ, vị lai hay hiện tại; cho dù là trong, hoặc ngoài; cho dù là  thô, hoặc tế; cho dù là  tốt, hoặc xấu; cho dù là  xa, hoặc gần.

Hãy quán sát rằng sắc là sự chết, là sát giả, là bị chết, là bệnh, là ung nhọt, là mũi tên, là sự bất hạnh, là chịu đựng bất hạnh. Những ai thấy như vậy là thấy chơn chánh. Tương tự, hãy quán sát như thế với thọ, tưởng, hành, thức.

Hãy quán sát rằng sắc -- nghĩa là những cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, và được tư lường --đều là vô thường, do vậy là khổ. Tương tự, hãy quán sát như thế với thọ, tưởng, hành, thức.
 
Bậc đa văn Thánh đệ tử nhìn thấy sắc là vô thường, nên không thấy sắc là ngã, hay khác ngã, hay hiện hữu ở trong nhau. Tương tự, hãy quán sát như thế với thọ, tưởng, hành, thức.
 
Ngươi sẽ rơi vào lưới ma, khi ngươi tự nghĩ rằng ngươi là một người nam, hay một người nữ, hay là bất cứ thứ gì.
 
Bởi vì bậc đa văn Thánh đệ tử nhìn thấy thân và tâm này không có gì  là ngã, là ngã sở nên đối với các pháp thế gian không chấp giữ. Vì không có gì chấp giữ nên không có gì để bị dính mắc. Vì không có gì để bị dính mắc nên tự giác ngộ Niết-bàn rằng sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.
 
Video dài 3 phút:

https://youtu.be/QJnE-prPh6w
.
.... o ....

The Buddha taught how to
recognize what Māra has created
and how to escape from Māra's grasp.

 
The Heart Sutra states that form is emptiness, and emptiness is form; form is not separate from emptiness, and emptiness is not separate from form. This teaching has been articulated in various ways in many of the Nikayas and Agamas.


The following article will be based on SA 120 Sutra (translated into Vietnamese by Venerable Tuệ Sỹ and Venerable Thích Đức Thắng, and into English by Bhikkhu Anālayo), SN 23.1 Sutta, and SN 5.2 Sutta (translated into Vietnamese by Venerable Thich Minh Chau and into English by Bhikkhu Sujato).

The Buddha spoke to Rādha as follows:

Observe that it is Māra who creates what is referred to as bodily form—specifically, form, sound, smell, taste, touch, and mental objects—regardless of whether they are past, future, or present; internal or external; gross or subtle; good or bad; or far or near.
 
Similarly, observe that it is Māra who creates what is referred to as feeling, perception, mental formations, and consciousness—regardless of whether these experiences are past, future, or present; internal or external; gross or subtle; good or bad; or far or near.

Contemplate that form is death, a killer, subject to death, a disease, a boil, an arrow, misfortune, and suffering. Whoever perceives this truth sees clearly. Similarly, contemplate feeling, perception, mental formations, and consciousness.
 
Observe that form—specifically, what is seen, heard, smelled, tasted, touched, and contemplated—is impermanent and, therefore, a source of suffering. Similarly, apply this observation to feelings, perceptions, mental formations, and consciousness.
 
The learned noble disciple perceives form as impermanent; therefore, he does not regard form as self, as separate from self, or as existing within one another. Similarly, apply this observation to feelings, perceptions, mental formations, and consciousness.
 
You fall into the trap of Māra when you identify yourself as a man, a woman, or anything else.
 
Because the learned Noble Disciple recognizes that this body and mind possess no inherent self or ownership, he does not cling to worldly phenomena. Since there is nothing to cling to, there is nothing to which he can become attached. As a result, he realizes Nirvana: that birth has ceased, the holy life has been established, what needed to be accomplished has been achieved, and he understands that there will be no further rebirth in the future.
.
Video, 3:16 minutes long:

https://youtu.be/Ra11_4OJO9U
 .
SOURCES:
SA 120:
https://suttacentral.net/sa120/vi/tue_sy-thang
https://suttacentral.net/sa120/en/analayo
SN 23.1:
https://suttacentral.net/sn23.1/vi/minh_chau
https://suttacentral.net/sn23.1/en/sujato
SN 5.2:
https://suttacentral.net/sn5.2/vi/minh_chau
https://suttacentral.net/sn5.2/en/sujato
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
13/12/202407:38:00
Tuệ Trung Thượng Sỹ, một Thiền sư lớn của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng nói rằng muốn vượt qua dòng sông sinh từ cần tự nhìn thấy thân và tâm mình như một con trâu bùn, vì khi trâu bùn bước xuống sông là sẽ tự tan rã. Nghĩa là, luôn luôn tự thấy mình là vô ngã, và đó là cách vượt sông sinh tử. Đó cũng là một cách mô tả lời dạy của Đức Phật.
10/12/202409:28:00
Thiền Tông dạy rằng người nào sống với Vô tâm là giải thoát. Trần Nhân Tông, vị Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng viết rằng khi gặp cảnh, giữ được vô tâm, thì không cần hỏi tới Thiền nữa. Đức Phật trước đó đã dạy pháp Vô tâm trong Kinh Phật Tự Thuyết Ud 1.10. Bài này sẽ viết theo nhiều bản Anh dịch trên Sutta Central.
08/12/202410:25:00
Kinh Kim Cang và Bát Nhã Tâm kinh viết rằng không có gì để chúng ta phải bám víu, bởi vì không hề có cái gì có tự ngã, và bởi vì thực tướng của tất cả các pháp là Không. Một cách cụ thể, Đức Phật đã dạy trong Kinh SN 22.63 rằng khi hễ ai khởi tâm bám víu là sẽ bị Ma trói buộc. Bài viết này sẽ dựa theo các bản dịch trên Sutta Central.
02/12/202408:13:00
Suy nghĩ từ góc độ đánh giá chất lượng cuộc sống của người bệnh như vậy sẽ làm thay đổi cái nhìn của người thầy thuốc về bệnh nhân trong quá trình điều trị. Cả người bệnh khi hiểu rõ chất lượng cuộc sống là do mình quyết định cũng sẽ không chỉ biết lệ thuộc vào thầy, vào thuốc, vào xét nghiệm mà còn biết tăng cường sức khỏe, nâng cao sức khỏe của chính mình
28/11/202411:23:00
Khi đứa trẻ chào đời, tất cả vũ khí trong thành phố Savatthi đột nhiên lấp lánh. Vào buổi sáng, vị Bà-la-môn đến cung điện như thường lệ. Nhà vua nói đêm qua vua mất ngủ, vì thấy vũ khí lấp lánh sáng. Vị Bà La Môn nói có lẽ đứa con mới sinh của ông đã ảnh hưởng, làm vũ khí lấp lánh, nhưng tử vi cho thấy đứa trẻ sẽ sống đơn độc. Vua nói, hãy nuôi giáo dục đứa trẻ đúng cách để thiện hóa đứa trẻ.
27/11/202407:44:00
Thế rồi khi dấn bước vào đời ta đã quên bài học ngày xưa đó, mãi mê tìm kiếm một búp sen vàng sen bạc rực rỡ hào quang ở tận chân trời góc biển giữa muôn hồng ngàn tía... Cho đến một hôm giật mình ngó lại: thì ra cái “Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng” của đoá sen kia rốt cuộc cũng chỉ là « Nhị vàng bông trắng lá xanh » đó thôi. Chẳng thêm chẳng bớt! Trong đầm sen thoảng mùi bùn đất quê hương đó, đóa sen vẫn xòe ra rồi khép lại. Khép lại rồi xòe ra. Từ nghìn xưa cũ. Chẳng sinh chẳng diệt! Đóa sen của thiên thu vẫn lung linh giữa gió và nước, như tủm tỉm cười, tỏa ngát hương thơm…
20/11/202407:01:00
Sau khi tham dự Tang lễ của một người bạn đồng môn vừa qua đời ở tuổi còn tương đối trẻ, về nhà tôi lại nhớ đến bài thơ hài cú Hai Mùa Thu của Nhà thơ người Nhật Shiki diễn tả bối cảnh cùng một thời gian và cùng một nơi chốn mà có hai mùa thu khác nhau
13/11/202408:16:00
Lý Lạp Ông, một triết gia Trung quốc thế kỷ thứ 16 viết trong Nhàn tình ngẫu ký: “Xét cơ thể con người, chỉ có hai cơ quan không cần thiết chút nào cả mà Trời phú cho là cái miệng và cái bao tử, nguồn gốc tất cả những cái lụy của con người từ xưa tới nay. Có cái miệng với cái bao tử nên sinh kế mới hóa ra phiền phức, sinh kế phiền phức mới sinh ra những mưu mô gian trá; mưu mô gian trá mới phải đặt ra hình pháp…”
09/11/202403:10:00
Kinh Từ Bi, xuất phát từ Tạng Pali có tên là Kinh Metta Sutta, còn được gọi là Kinh Karaniya Metta, nội dung dạy tu thiền Tâm Từ, tức là lòng yêu thương vô lượng. Theo bản chú giải, duyên khởi cho Kinh Từ Bi là tích truyện một nhóm 500 vị sư sau khi nhận lời dạy từ Đức Phật đã tới một khu rừng để thiền định.
08/11/202409:17:00
Kinh sách khuyên học Phật dù một câu một chữ cũng… quý! Lục tổ Huệ Năng lúc còn gánh cũi trên rừng chỉ nghe người ta tụng câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà hoát nhiên đại ngộ. Lại nhớ chuyện một thiền sư cho đệ tử mỗi một chữ “Vô” để làm “thoại đầu” mà thiền tập…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.