Hôm nay,  

Đọc Ngô Thì Nhậm: Về Nước và Lửa / Reading Ngô Thì Nhậm: About Water and Fire

22/03/202522:19:00(Xem: 3200)
blank

Đọc Ngô Thì Nhậm: Về Nước và Lửa

 

Nguyên GIác

  

Pháp của Đức Phật dạy là để xa lìa  tham, sân, si. Đức Phật dạy rằng, bất kỳ ai xa lìa tham, sân, si đều sẽ giải thoát. Bài viết này sẽ khảo sát rằng ngài Hải Lượng Thiền Sư, tức là Ngô Thì Nhậm (1746-1803), đã dạy cách nào để xa lìa  tham, sân, si trong tác phẩm Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, một sách về Thiền Tông xuất bản lần đầu vào năm 1796.

Nơi đây, chúng ta dựa vào sách Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V, ấn hành năm 2006 tại Hà Nội, do nhiều tác giả trong Viện Nghiên Cứu Hàn Nôm biên dịch. 

Nơi đây, chúng ta chụp lại từ bản PDF nửa trang 144 của sách này:

 

blank

  

Đoạn này được đánh máy lại như sau. Chữ "Thầy" trong đoạn văn là chỉ cho ngài Hải Lượng Thiền sư Ngô Thì Nhậm.

 

(Trích:)

Trang 144: NGÔ THÌ NHẬM TOÀN TẬP - TẬP V

- Lý (ý lẽ) không thể noi theo hết được, vậy thì dục (Hằng ham muốn) còn có thể cắt đứt hết được hay không?

Thầy nói: - Không cắt đứt thì đứt, muốn cắt đứt thì lại không đứt. Nước chảy cuồn cuộn, chảy đi thì cạn. Dập lửa lốm đốm, dập thì bùng lên.

Đồ đệ lại bạch với thầy rằng: - Có nước gì chẳng phải là nước không?

Thầy trả lời rằng: - Nếu nước được coi là nước, thì đó không phải là nước thật.

Lại bạch rằng: - Có lửa gì chẳng phải là lửa không?

Thầy trả lời rằng: - Nếu lửa được coi là lửa, thì đó chính là lửa giả. (Hết trích)

.

Lý nói trên chính là lý duyên khởi, là dòng vận hành đưa tới tất cả các hiện tượng hiển lộ và rồi biến mất. Nói rằng Lý thì không nói theo hết được, có thể dẫn ra một bản kinh lời Đức Phật dạy về một vị vua ra lệnh cho các quan chẻ cây đàn ra để tìm bắt âm thanh. Để các chuỗi âm thanh từ một ca khúc xuất hiện, là rất nhiều duyên để có cây rừng được đốn về để cho thợ đàn ráp thành đàn. Cây rừng dùng làm gỗ cây đàn thích nghi cần có mưa, có nắng, có thời gian nhiều năm mới mọc thành cây thích hợp. Để có bản nhạc, cần phải đào tạo một nhạc sĩ tài năng nhiều năm. Rồi người chơi đàn phải luyện nét đàn từ hàng chục năm nữa. Luật nhân duyên trùng trùng như thế. Do vậy, Ngô Thì Nhậm chỉ lặp lại lời Đức Phật dạy rằng không thể noi theo hết được.
 

Khi nói rằng dục không thể cắt đứt, Ngô Thì Nhậm chỉ nói theo nghĩa rằng duyên để dục hiện ra trong tâm người tu là có từ muôn đời, hễ muốn cắt đứt thì sẽ hỏng nếu không nhận ra lý duyên khởi. Vấn đề là cách nói kiểu Thiền Tông: nước là dụ cho tham, và lửa là dụ cho sân.

Ngô Thì Nhậm dạy rằng, “Nước chảy cuồn cuộn, chảy đi thì cạn. Dập lửa lốm đốm, dập thì bùng lên.” Vậy thì tu như thế nào để cạn nước và tắt lửa?

Câu trả lời của Ngô Thì Nhậm rất là lý thú, gợi nhớ Kinh Kim Cang. Kinh này từng viết rằng, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng không phải là tướng thì là thấy Như Lai, thấy Đức Phật.
 

Nghĩa là, nếu thấy những cái được thấy, được nghe, được cảm thọ... không phải là những cái được thấy, được nghe, được cảm thọ... thì là thấy Như Lai, thấy Đức Phật.

Như thế, khi nghe tiếng đàn, sẽ nhận ra không phải là tiếng đàn, sẽ nhận ra cái Không, cái Rỗng Rang của trùng trùng duyên khởi, thì sẽ không còn bị buộc ràng nữa.
 

Như thế, khi nhìn thấy một phụ nữ nhan sắc, sẽ nhận ra không phải là nữ, không phải là nam, không phải là bất kỳ cái ngã thể nào. Tất cả đều là rỗng rang, hư ảo trong cái lý duyên khởi trùng trùng vô tận. Đây cũng là câu trả lời ghi trong Kinh SN 5.2 Sutta khi Thánh Ni Soma bị Ác ma tới trêu ghẹo, rằng ngài Soma không còn thấy có tính nữ, không còn thấy có tính nam, không còn thấy có bất kỳ tự ngã nào ở đâu nữa cả. Đó là vô ngã. Đó là bình đẳng. Đó là không bị buộc ràng. Đó là giải thoát. Thấy thường trực như thế thì từ từ sẽ vắng bặt tham sân si, vì không còn duyên nào để buộc trói nữa.

Tuy nhiên, cốt tủy của lời dạy từ ngài Ngô Thì Nhậm là hãy thấy nước không phải là nước, hãy thấy lửa không phải là lửa. Đó là một tỉnh thức thường trực. Đó là Cái Biết đã được đánh thức thường trực để thấu suốt thực tướng của các pháp. Đó là tỉnh thức thường trực của người đã nhìn thấy cái Không hiển lộ trong bất kỳ những gì hiện ra trong sắc, thọ, tưởng, hành và thức.  

Trường hợp này cho chúng ta hiểu rằng vì sao các chùa Việt Nam thường tụng Kinh Kim Cang. Và khi bạn ngẩng đầu lên, thấy ngôi chùa không phải là ngôi chùa thì là đường tu gần xong rồi.

.

.... o ....

 

Reading Ngô Thì Nhậm: About Water and Fire
 

Written and translated by Nguyên Giác

 

The Buddha's Dharma teaches the importance of relinquishing greed, anger, and delusion. According to the Buddha, those who successfully abandon these negative states will attain liberation. This article will explore how Zen Master Hải Lượng, also known as Ngô Thì Nhậm (1746-1803), instructed followers on overcoming greed, anger, and delusion in his book, "Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh," a foundational text on Zen Buddhism first published in 1796.

Here, we reference the book "Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V," published in 2006 in Hanoi and translated by various authors at the Institute of Hán Nôm Studies.

Below, we present a photograph of half of page 144 from the PDF version of this book.

These paragraphs are retyped as below. The term "Teacher" in the paragraphs refers to Zen Master Ngô Thì Nhậm.

  

(Excerpt:)

Page 144: NGÔ THÌ NHẬM TOÀN TẬP - TẬP V

“The law of dependent origination cannot be traced to its source; therefore, can desire be completely eliminated?”

The Master said, "Attempting to cut it off will not result in its termination. Instead, clearly identify the causes and conditions, and they will naturally resolve themselves. Water flows in a whirlpool; if it is diverted, it will eventually dry up. Similarly, if you extinguish a fire unevenly, it will flare up again."

The disciple asked the teacher, “Is there any water that is not water?”

The teacher replied, “If water is considered water, then it is not real water.”

The student asked again, "Is there any fire that is not fire?"

The teacher replied, "If fire is considered fire, then it is false fire." (End of excerpt)

 

The principle mentioned above is known as dependent origination, which describes the process through which all phenomena arise and subsequently cease to exist. To illustrate that this principle cannot be traced back to a singular source, we can refer to a sutra in which the Buddha recounts a story about a king who commanded his officials to disassemble a lute to discover the origin of its sound. For the melodies produced by a song to emerge, numerous factors must come into play, including the cutting down of forest trees so that the lute craftsman can construct the instrument. The trees used to create the lute's wood require rain, sunlight, and many years to mature into suitable specimens. Additionally, to produce a piece of music, a talented musician must undergo years of training. The lute player must then practice the instrument's notes for decades. The law of dependent origination operates in a similar manner. Therefore, Ngô Thì Nhậm merely reiterated the Buddha's teaching that it is impossible to trace phenomena back to their original source.
 

When stating that lust cannot be severed, Ngô Thì Nhậm suggests that the root of lust's emergence in a practitioner's mind has existed since time immemorial. Eliminating it without understanding the principle of dependent origination is bound to fail. This statement carries a Zen-like quality: water symbolizes greed, while fire represents anger.

Ngô Thì Nhậm stated, "Water flows in a whirlpool; if it is diverted, it will eventually dry up. Similarly, if you extinguish a fire unevenly, it will flare up again."
 

How can one practice drying up water and extinguishing a fire?

Ngô Thì Nhậm's response is quite intriguing, as it evokes the teachings of the Diamond Sutra. This sutra states, "If you see that all appearances are not appearances, you are seeing the Tathagata." In other words, recognizing that all appearances are not what they seem allows you to perceive the Tathagata, or the Buddha.

That is, if you see that what is seen, heard, felt... is not what is seen, heard, felt... then you are seeing the Tathagata, seeing the Buddha.

Thus, when you hear the sound of a lute and come to understand that it is not merely the sound of a lute but rather a manifestation of Emptiness—the void arising from countless dependent originations—you will no longer be bound by the sound of the lute.

Thus, when you encounter a beautiful woman, you will come to understand that what you perceive is neither female nor male, nor is there any sense of self. Everything is empty and illusory within the endless cycle of dependent origination.
 

This reply is also the answer recorded in the SN 5.2 Sutta, where Noble Bhikkhuni Soma was taunted by the Evil One. Venerable Soma no longer perceived any female or male, nor did she see a self anywhere. This is selflessness. This is equality. This truth is liberation from bondage. By consistently recognizing this truth, you will gradually free yourself from greed, anger, and delusion, as there will no longer be any reason to bind you.

However, the essence of the teachings from Zen Master Ngô Thì Nhậm is to perceive water as not water and fire as not fire. This understanding represents a continuous awareness—a Knowing that is perpetually awakened to penetrate the true nature of all things. It embodies the constant awareness of one who has recognized the emptiness manifesting in all forms, feelings, perceptions, mental formations, and consciousness.

This case helps us understand why Vietnamese pagodas frequently recite the Diamond Sutra. When you lift your head and realize that the pagoda is not merely a pagoda, you will find that the path of practice is nearly complete.

 

THAM KHẢO / REFERENCE:

. Kinh SN 35.246. Bản dịch Thầy Minh Châu:

https://suttacentral.net/sn35.246/vi/minh_chau

. SN 5.2 Sutta. Translated by Bhikkhu Sujato: Surely someone who might think: ‘I am woman’, or ‘I am man’, or ‘I am’ anything at all, is fit for Māra to address (Chắc chắn hễ ai nghĩ rằng: "Tôi là nữ", hoặc "Tôi là nam", hoặc "Tôi là" bất cứ thứ gì, thì thích nghi cho Ma Vương thanh toán).

https://suttacentral.net/sn5.2/en/sujato

. Snp 5.7 Sutta. Translated by Bhikkhu Sujato: ...depending on nothingness, all else left behind,

freed in the ultimate liberation of perception (nương vào Không, mọi thứ khác bỏ lại phía sau,

được giải thoát trong giải thoát tột cùng của tưởng)

https://suttacentral.net/snp5.7/en/sujato

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
01/09/202508:53:00
J81. Surapana Jātaka -- Câu chuyện về Trưởng lão Sagata và sự nguy hiểm của chất kích thích Tóm tắt: Một vị sư, mặc dù sở hữu thần thông vĩ đại, đã bị hạ gục bởi rượu mạnh. Đức Phật kể lại rằng cả một nhóm tu sĩ khổ hạnh đáng kính trong quá khứ cũng đã mất đi thần thông vì rượu.
29/08/202509:54:00
J71. Varana Jātaka -- Truyện về Trưởng lão Tissa, con trai của một vị điền chủ Tóm tắt: Một vị sư, đáng lẽ phải đang nỗ lực, đã ngủ quên và bị gãy xương đùi sau khi ngã. Đức Phật kể một câu chuyện từ kiếp trước, trong đó chính vị sư này đã ngủ quên trong giờ làm việc, và khi thức dậy, mắt bị thương và mang về một khúc gỗ xanh, khiến các bạn đồng hành không được ăn.
27/08/202514:07:00
J61. Asatamanta Jātaka -- Cuộc sống thế tục rất nguy hiểm. Tóm tắt: Một vị sư trẻ, bị thôi thúc bởi ham muốn sắc dục với một thiếu nữ, đang trên bờ vực từ bỏ cuộc sống tu hành. Đức Phật kể một câu chuyện từ quá khứ minh họa cho sự độc ác
25/08/202510:47:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J51. Mahasilava Jātaka -- Vị Vua Không Bao Giờ Bỏ Cuộc Tóm tắt: Một vị sư từ bỏ sự nỗ lực. Để khích lệ ông, Đức Phật kể câu chuyện về một vị vua thời xưa, người đã kiên trì thực hành lòng từ bi ngay cả khi bị đe dọa đến tính mạng—cách ông thoát khỏi việc bị chôn vùi trong nghĩa địa, giải quyết một cuộc tranh chấp giữa hai Dạ Xoa
23/08/202510:43:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J41. Losaka Jātaka -- Chuyện về nhà sư trọn đời thiếu ăn, trừ ngày cuối đời. Tóm tắt: Trưởng lão Xá Lợi Phất gặp một cậu bé nghèo và truyền giới cho cậu. Bất chấp những bất hạnh trong cuộc sống tại gia và sự đấu tranh không ngừng để có đủ thức ăn, cuối cùng cậu đã đạt được quả vị A La Hán. Đức Phật kể lại một câu chuyện quá khứ, trong đó một người đàn ông đã ngăn cản một vị A La Hán nhận thức ăn. Kết quả là, trong mỗi kiếp sống tiếp theo, vị ấy đều gặp bất hạnh. Tuy nhiên, trong kiếp sống cuối cùng, nhờ thiền định về ba đặc tính, ngài đã đạt được sự giải thoát
22/08/202519:01:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J31. Kulavaka Jātaka -- Truyện về Lòng từ bi và năm giới Tóm tắt: Một vị sư, vì khát nước, đã giết hại chúng sinh bằng cách uống nước chưa lọc, điều này trái với quy định của giáo đoàn. Khi nghe chuyện này, Đức Phật kể một câu chuyện về việc Sakka, Vua của chư Thiên, đã tránh làm hại chúng sinh và nhờ đó đã chiến thắng cuộc chiến giữa chư Thiên và A-tu-la.
21/08/202510:33:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J21. Kurunga Jātaka -- Khi Devadatta là một thợ săn và Bodhisatta là một con linh dương. Tóm tắt: Các nhà sư nói chuyện về Đề Bà Đạt Đa và những cuộc tấn công của ông này nhắm vào Đức Phật. Đức Phật giải thích rằng Đề Bà Đạt Đa đã hành động tương tự trong những kiếp trước và kể một câu chuyện về một con linh dương khôn ngoan đã thoát khỏi sự hủy diệt của thợ săn nhờ đọc được những dấu hiệu.
19/08/202509:22:00
Bản Sanh: truyện 11 tới 20 / Jataka Tales: Stories 11–20 Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J11. Lakkhana Jātaka -- Con nai may mắn Tóm tắt: Đề Bà Đạt Đa ra đi cùng 500 đệ tử, và Đức Phật đã phái Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đến để đưa họ trở về. Sau đó, Đức Phật kể một câu chuyện về việc trong quá khứ, Đề Bà Đạt Đa, vì bất cẩn, đã đánh mất đàn gia súc mà ông đang chăn dắt, trong khi Xá Lợi Phất đã cứu sống tất cả.
16/08/202511:40:00
Lời Dịch Giả: Để giúp giới trẻ Việt Nam có thể dễ dàng học căn bản Phật pháp, các truyện Bản sanh nơi đây sẽ được rút ngắn và viết lại cho đơn giản trong song ngữ Việt -Anh. Dịch giả hy vọng các truyện Bản sanh song ngữ sẽ giúp cho quý tăng ni, giáo viên, và Phật Tử có thêm một phương tiện mới để hoằng pháp. Nguồn sẽ dựa theo bản tiếng Anh của 547 truyện Jataka trên mạng SuttaCentral
07/08/202507:21:00
Lời dịch giả: Bài viết sau đây ký tên tác giả là Sa Môn Tố Liên, đăng trên Báo Đuốc Tuệ, ấn bản tháng 7 năm 1936. Hòa thượng Thích Tố Liên (1903 – 1977), thế danh Nguyễn Thanh Lai, sinh năm Quí Mão (1903), tại tỉnh Hà Đông. Xuất thân trong một gia đình Nho giáo. Ngài xuất gia năm 13 tuổi tại chùa Hương Tích, là đệ tử của Tổ Thanh Tích. Với tính cương trực, năng động, mặc dù được chọn làm trưởng pháp tử kế vị chùa Hương Tích, song Ngài quyết tâm du phương tham học nơi các đạo tràng danh tiếng như Đào Xuyên, Tế Xuyên, Bằng Sở, Vĩnh Nghiêm… và đã từng trú trì ở chùa Côn Sơn, Thanh Mai.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.