Hôm nay,  

Phép Tu Niệm Thường Ngày Theo Tịnh Độ Tôn

04/05/202511:50:00(Xem: 2259)
blank
 

PHÉP TU NIỆM THƯỜNG NGÀY THEO TỊNH ĐỘ TÔN
 

Viên Âm Nguyệt San

Người dịch: Nguyên Giác

  

(Lời người dịch: Bài này từ báo Viên Âm Nguyệt San, số 11, ấn bản ngày 1 tháng 10 năm 1934, nơi trang 31-33, lấy từ bản scan PDF. Bài này không ghi tên tác giả, hiểu ngầm tác giả là Nhóm chủ trương Viên Âm, hay có thể tác giả là Chủ biên Tâm Minh Lê Đình Thám. Bài này nơi đây cũng được dịch ra tiếng Anh để các thế hệ đi sau hiểu về Phật học đầu thế kỷ thứ 19.)  

.... o ....

TIỄU DẪN

Người học Phật, chẳng những phải tham cứu chơn lý, mà lại cần phải y như chơn-lý mà thiệt thành cho đến khi chứng đặng chơn-lý; vì nếu chỉ hiểu lý mà không tu thì có khác chi người nói ăn mà không ăn, biết bao giờ cho hết đói.

Trong các phép tu hành, phép niệm Phật (Tịnh Độ-Tôn) là một phép tuyệt-diệu, đã dễ học dễ tu, lại mau có hiệu-quả. Nghĩa lý của phép niệm Phật tuy nhiều, nhưng không ngoài sáu chữ: Nam mô A- Di-Đà Phật.

Nam mô nghĩa là quây, là qui-mạng. Nam mô A-Di- Đà Phật là nương theo đức Phật A Di Đà, là gởi thân-mạng mình nơi đức Phật A-Di-Đà, chờ không nương theo tánh chúng sanh, không gởi thân mạng cho tánh chúng sanh nữa. Người niệm Phật hằng ngày phải nhờ Phật, trong khi thân làm việc gì, miệng nói đều gì. ý nghĩ sự gì đều nói theo tâm tánh bản lai thanh tịnh của Phật không noi theo vọng tưởng chúng sanh của mình, thì mới thiệt là niệm Phật.

Ví như người theo thiếp tập viết chữ cho tốt, ban đầu thiếp một nơi, mình một ngã, chữ thiếp vẫn tốt, chữ mình vẫn xấu; lần lần đồ đã y chữ thiếp, những nét viết còn kém; về sau lâu ngày, tập đã thành tánh thì viết tốt như chữ thiếp.

Người niệm Phật cũng vậy, tuy khi ban đầu nguyện bỏ tánh tham, sân, si, vv... do ngã chấp của chúng sanh tạo thành mà thường khi niệm theo tánh bản lai thanh tịnh từ-bi hỉ xả của đức Phật A Di-Đà, nhưng Phật là Phật, mình là mình còn khác nhau như trời với vực. Khi thói mê lầm của chúng sanh mỗi ngày mỗi bớt, khi tâm thanh tịnh của chư Phật mỗi ngày mỗi thêm, thì cử tâm động niệm tuy không y như Phật nhưng đã ít khi trái với Phật tánh. Lần lần như vậy cho đến khi tâm chúng sanh dứt sạch, dầu thân nghiệp, khẩu nghiệp hay ý-nghiệp, niệm niệm đều khế hiệp với Phật-tánh, tức là được minh-tâm kiến tánh.

Chư Phật mà thành Phật là vì niệm niệm đều là niệm Phật, chúng sanh mà thành chúng sanh là vì niệm niệm đều là niệm chúng sanh; nếu chúng sanh không niệm chúng sanh mà niệm Phật thời chắc chắn phải thành chánh quả.

Phép tu niệm Phật huyền diệu vô cùng, nên chẳng những người tu Tịnh-Độ cần phải niệm Phật mà người tu các pháp-môn khác cũng thường phải niệm Phật mới khỏi lạc về ngoại đạo; lại chẳng những phàm phu phải niệm Phật, mà các vị Đại-Bồ-Tát cũng thường thường niệm Phật mới trừ hết vi-tế hoặc mà chứng đặng đạo quả viên mãn của chư Phật.

Người tu phép niệm Phật cả ngày cả đêm phải niệm Phật: làm việc cũng niệm, ăn uống cũng niệm, đạo chơi cũng niệm, cho đến khi đi ngủ, không khi nào là không niệm; vì hể có cử tâm động niệm thì đều phải nương theo bản-tánh thanh tịnh từ-bi-bi-xả của đức Phật A-Di-Đà cả.

Vậy thì biết phương pháp tu niệm sau này chỉ là những buổi công phu đặc biệt để cho mau dứt trừ thói chúng-sanh, mau khế hiệp với Phật-tánh đó thôi.

Các câu chú là những bi ngữ do tâm-trí bất khả tư nghì của Phật phát sanh ra, không thể dịch được không thể hiểu được, duy có tin nơi diệu-dụng từ bi của Phật mà niệm, thời sẽ được nhiều phần lợi ích.

Khi niệm câu chú súc miệng, thì phải cầu cho lời nói từ nơi miệng ấy ra đều khế hiệp với đức tánh của Phật A-Di Đà. Khi niệm câu chú rửa tay, thì cầu cho tất cả các việc làm thể hiệp với đức tánh của Phật A-Di-Đà. Khi chú rửa mặt, thì cầu cho năm căn (nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân) không vấn vít với trần cảnh và được thanh tịnh như năm căn của Phật A-Di-Đà. Khi niệm chú Tịnh pháp giới, thi cầu cho chứng biết tưởng chơn-thiệt bình đẳng như như của các pháp như chư Phật. Khi niệm chú Tịnh tam-nghiệp, thì cầu cho ba nghiệp (thân, khẩu, ý) của mình đều thanh tịnh, y như diệu dụng của Phật mà phát hiện. Khi niệm chú Đại-bi, thì cầu cho được tâm đại bi bình-đẳng của đức Quán-Thế-Âm để phố- độ chúng sanh. Khi niệm chủ vãng sanh, thì cầu cho tâm tánh của mình mỗi ngày mỗi gần tâm tánh của Phật đặng chắc chắn vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-Di Đà.

Trong khi niệm chú mà phát nguyện như vậy thì chắc được Phật hộ trì cho đường tu hành mau có hiệu quả. Đến như trong khi niệm Phật thời nhất định phải đem tâm thanh tịnh (chứ không nên cầu danh lợi v. v.) mà niệm Phật, niệm khi tâm năng niệm và Phật sở-niệm hiệp làm một thì được minh tâm kiến tánh vãng sanh về tây phương Tịnh Độ.

Dầu chưa đặng vậy, nhưng nếu hằng ngày niệm Phật không quên thì đến khi lâm chung cũng chắc có Phật đến tiếp dẫn về Tịnh độ. Một điều cốt yếu là người niệm Phật cần phái giữ bốn giới: sát, đạo, dâm, vọng cho nghiêm nhặt, vì sát, đạo, dâm, vọng thiệt trái hẳn với đức từ-bi-hi-xả của chư Phật. Dầu cho nghiệp chướng nặng nề, không thể giữ đủ bốn giới, thì cũng phải gắng giữ trọn hai, ba giới mới được. Nam mô A-Di-Đà Phật.

(Muốn rõ thêm sự, lý phép niệm Phật, xin xem ba bài giảng về phép tu Tịnh độ trong Viên-Âm số 6,7 và 8).

 

.... o ....

English version:

DAILY PRACTICE OF PURE LAND BUDDHISM
 

Viên Âm Nguyệt San

Translated by Nguyên Giác
 

(Translator's Note: This article is from the Viên Âm Nguyệt San, issue 11, published on October 1, 1934, and spans pages 31–33. It is derived from a scanned document. The author's name is not included; however, it is understood that the piece was written by the Viên Âm Editorial Board, or possibly by the Editor-in-Chief, Tâm Minh Lê Đình Thám. This article has been translated into English to help future generations gain insight into Buddhism in the early 20th century.)
 

INTRODUCTION

Buddhists must not only study the truth but also genuinely follow it until they attain it. Understanding the truth without practicing it is akin to someone who claims to eat but does not actually consume food, leaving them uncertain of when they will be satisfied.

Among the various practices, contemplating the Buddha (Pure Land) is a wonderful practice that is straightforward to learn, simple to implement, and quickly effective. While the significance of reciting the Buddha's name is multifaceted, it can be distilled into six words: Namo Amitabha Buddha.

Namo means to turn back or to take refuge. Entrusting one's life to Amitabha Buddha means no longer relying on the nature of sentient beings. Individuals who contemplate the Buddha daily must rely on him, engaging in all actions with their bodies, expressing everything with their words, and aligning their thoughts with the Buddha's original pure nature. By avoiding the delusions of sentient beings, they can genuinely contemplate the Buddha.

For example, a person who practices writing by imitating a model's handwriting will initially find that one hand moves in one direction while their handwriting diverges. Although the model's handwriting remains proficient, the individual's handwriting may still be lacking. Over time, the individual's writing will begin to resemble the model's style, but the quality of the strokes may still be subpar. Eventually, after extensive practice has become habitual, the individual's writing will match the quality of the model's handwriting.

The same holds true for those who contemplate the Buddha. Although they initially vow to abandon greed, anger, ignorance, and other afflictions created by the ego of sentient beings, they often reflect on the original pure nature of compassion, joy, and equanimity embodied by Amitabha Buddha. However, the Buddha is the Buddha, and we are ourselves; the difference between us is as vast as the sky and the abyss. As the delusions of sentient beings gradually diminish, and as our minds contemplate the pure mind of the Buddhas each day, our actions and thoughts, while not identical to those of the Buddha, increasingly align with Buddha nature. We continue this process until we completely eradicate the delusions of sentient beings. Whether it pertains to bodily karma, verbal karma, or mental karma, each thought becomes harmonious with Buddha nature, allowing us to perceive our own mind-nature.

Buddhas become Buddhas because every thought they have is a thought of Buddha. Similarly, sentient beings become sentient beings because every thought they have is a thought of sentient beings. If sentient beings do not focus on their thoughts but instead contemplate Buddha, they will undoubtedly attain enlightenment.

The practice of contemplating the Buddha is profoundly transformative. Therefore, not only do Pure Land practitioners need to engage in this contemplation, but practitioners of other Dharma paths should also frequently contemplate the Buddha to avoid deviating into external distractions. Moreover, it is not just ordinary individuals who benefit from this practice; even great bodhisattvas often contemplate the Buddha to eliminate subtle defilements and attain the ultimate realization of Buddhahood.

Those who practice the method of contemplating the Buddha must do so continuously, both day and night. Whether they are working, eating, or drinking, they should maintain their contemplation of the Buddha. There should never be a moment when they are not engaged in this practice. Each time the mind stirs, they must draw upon the pure qualities of compassion, mercy, and equanimity embodied by Amitabha Buddha.

Therefore, we understand that the method of contemplating the Buddha in the future consists solely of special practice sessions designed to swiftly eliminate the habits of sentient beings and facilitate a harmonious alignment with Buddha nature.

Meanwhile, mantras are compassionate words that arise from the inconceivable mind of the Buddha; they cannot be translated or fully understood. Only by believing in the extraordinary power of the Buddha's compassion and reciting these mantras can one receive numerous benefits.

When reciting the mantra for rinsing the mouth, one should pray that the words spoken are in harmony with the virtues of Amitabha Buddha. When reciting the mantra for washing the hands, one should pray that all actions align with the virtues of Amitabha Buddha. When reciting the mantra for washing the face, one should pray that the five senses—eyes, ears, nose, tongue, and body—remain unattached to worldly distractions and are as pure as the five senses of Amitabha Buddha.

When reciting the mantra to purify the dharma realm, pray to realize the truth of the equality of all dharmas, as exemplified by the Buddhas. When reciting the mantra to purify the three karmas, pray that your three karmas—body, speech, and mind—become pure, reflecting the miraculous power of the Buddha. When reciting the Great Compassion Mantra, pray to cultivate the boundless compassion of Avalokiteshvara to save all living beings. When reciting the Rebirth Mantra, pray that your mind-nature draws closer to the Buddha's mind-nature each day, ensuring rebirth in the Pure Land of Amitabha Buddha.

While reciting the mantras and making such vows, the Buddhas will undoubtedly protect you, ensuring that your path of practice becomes effective swiftly. When contemplating the Buddha, it is essential to maintain a pure mind, free from the desire for fame, profit, or other distractions. Focus on the Buddha until the mind of the practitioner and the Buddha being contemplated merge into one. In doing so, you will attain enlightenment, recognize your true nature, and be reborn in the Pure Land of the West.

Even if it is not yet possible, if we contemplate the Buddha every day without forgetting, then at the time of death, the Buddha will surely come to guide us to the Pure Land. One essential aspect is that those who contemplate the Buddha must strictly observe the four precepts: refraining from killing, stealing, adultery, and lying. These actions are completely contrary to the Buddha's virtues of compassion, renunciation, and equanimity. Even if our karmic obstacles are so heavy that we cannot uphold all four precepts, we must still strive to observe two or three of them. Namo Amitabha Buddha.

(To gain a clearer understanding of the practice and rationale behind contemplating the Buddha, please refer to the three lectures on Pure Land practice published in Viên Âm Magazine, issues 6, 7, and 8.)

NGUỒN:

. Pháp Tu Niệm Thường Ngày Theo Tịnh Độ Tông. Viên Âm Nguyệt San số 11, ấn bản 1/10/1934:

https://phatviet.info/tap-chi-vien-am-nguyet-san-xem-pdf/

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
13/11/202508:07:00
J351. Manikundala Jātaka -- Mọi thứ đều thay đổi - niềm vui chuyển thành nỗi buồn, và cuộc sống luôn thay đổi và mất mát. Tóm tắt: Một cận thần vô tội bị giam nhưng sau đó được nhà vua thả ra và tôn vinh. Đức Phật kể lại câu chuyện về một người đàn ông có liên quan đến cung điện Benares, người bị lưu đày và sau đó thuyết phục một vị vua nước ngoài tấn công đất nước cũ của mình. Thay vì gây ra cái chết của người khác, vua Benares đã chọn đầu hàng một cách tự nguyện. Cảm kích trước đức hạnh của ông, vị vua chiến thắng đã nhượng bộ và trả tự do cho ông.
11/11/202504:21:00
J341. Kandari Jātaka -- Không chung thủy sẽ dẫn đến nhiều hậu quả. Tóm tắt: Hoàng hậu Kinnarā, vợ của vua Kaṇḍari xứ Benares, ngoại tình với một người đàn ông tàn tật sống trên cây. Khi bị phát hiện, nhà vua muốn giết chết bà, nhưng vị sư của ông, Pañcālacaṇḍa, giải thích rằng hành vi này đơn giản là bản chất của phụ nữ, và lưu ý rằng ngay cả những phụ nữ trẻ trên thế gian cũng hành động tương tự.
05/11/202521:02:00
J331. Kokalika Jātaka -- Vị Vua lắm lời và chú chim cu gáy (cuckoo) con Tóm tắt: Nhà sư Kokālika trách mắng hai vị đại đệ tử, và vì lời nói bất xứng mà bị đọa vào địa ngục. Đức Phật kể câu chuyện về một con chim cu được một con quạ nuôi dưỡng nhưng lại bắt đầu hót khi còn trong tổ, dẫn đến cái chết của nó và bị ném xuống đất.
01/11/202519:10:00
J321. Kutidusaka Jātaka -- Vị Sa-di Trẻ Đốt Lều Của Trưởng Lão Tóm tắt: Một trong những sa di của Trưởng lão Mahākassapa nổi giận với thầy mình, cư xử tệ bạc, và cuối cùng đốt cháy túp lều của thầy trước khi rơi vào địa ngục. Đức Phật kể câu chuyện về một con khỉ, khi bị khiển trách vì những thiếu sót của mình, đã phá hỏng tổ chim.
28/10/202510:32:00
J311. Pucimanda Jātaka -- Câu chuyện về Thần Cây Nimb Tóm tắt: Khi một tên trộm nằm trên hiên nhà của Trưởng lão Moggallana (Mục Kiền Liên), ngài liền đuổi hắn đi khi những kẻ truy đuổi đến. Đức Phật kể một câu chuyện về việc thần cây Nimb, đã đuổi một tên trộm đi, vì sợ rằng cành cây sẽ bị chặt để đâm chết tên trộm, và đoạn hội thoại sau đó.
25/10/202507:01:00
J301. Cullakalinga Jātaka -- Bốn ni sư khổ hạnh Tóm tắt: Bốn nữ tu khổ hạnh đạo Kỳ Na đạt được chiến thắng tranh luận vang dội khắp nơi cho đến khi bị Trưởng lão Xá Lợi Phất đánh bại. Sau đó, họ quy y Tam Bảo và xin xuất gia. Đức Phật kể một câu chuyện về bốn cô gái trở thành nguyên nhân gây ra chiến tranh. Họ được đưa vào hậu cung của một vị vua đối địch, khiến vua cha phải chuẩn bị chiến đấu. Tuy nhiên, sau khi nghe Sakka nói rằng mình sẽ chiến thắng, ông đã thể hiện lòng dũng cảm bất chấp việc bị đối thủ đánh bại. Cuối cùng, ông đã đưa của hồi môn cho các con gái mình.
17/10/202511:34:00
J281. Abbhantara Jātaka -- Món Cúng Dường Nước Xoài Ép Tóm tắt: Mẹ của Rahula (La Hầu La) ngã bệnh sau khi xuất gia. Ngài La Hầu La hỏi nên làm gì, và bà xin nước ép xoài. Trưởng lão Sāriputta (Xá Lợi Phất) liền mang nước ép đến, và bà đã khỏi bệnh. Đức Phật kể một câu chuyện về một hoàng hậu xưa kia muốn có một quả "xoài giữa" và một con vẹt trung thành đã tìm được một quả cho bà.
15/10/202510:57:00
J271. Udapana-Dusaka Jātaka -- Chó rừng và cái giếng linh thiêng Tóm tắt: Một con chó rừng làm bẩn giếng nước nó uống và bị các sa di đuổi đi. Đức Phật kể lại một câu chuyện tương tự đã xảy ra trong một kiếp trước và Ngài đã khiển trách con chó rừng khi nó thú nhận rằng tổ tiên của nó đã từng hành xử như vậy.
09/10/202512:44:00
J261. Paduma Jātaka -- Câu chuyện về cây của Ananda và người nói năng thông minh Tóm tắt: Trưởng lão Ananda giúp một số nhà sư hái hoa sen để cúng dường cây Bồ Đề tại Sāvatthi. Đức Phật sau đó kể lại câu chuyện về một số người đã cố gắng lừa gạt người trông coi ao sen nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, người nói thật đã được thưởng hoa.
07/10/202507:40:00
J251. Samkappa Jātaka -- Câu chuyện về vị sư si tình Tóm tắt: Một vị sư, khi nhìn thấy một người phụ nữ, đã trở nên say mê, muốn rời cuộc sống tu hành của mình. Đức Phật kể lại câu chuyện về một vị đạo sĩ thánh thiện, người đã bị cám dỗ và mất hết thần thông sau khi nhìn thấy hoàng hậu khỏa thân một ngày nọ. Vị đạo sĩ sau đó đã rời khỏi khu vườn của nhà vua và trở về dãy Himalaya, nơi ông đã lấy lại được thần thông.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.