Hôm nay,  

Chuyện Vãn: Người Xưa Sửa Lưng

04/07/202500:00:00(Xem: 877)

sua-lùn
sua-lung

Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…
Trên chính trường của Mỹ, thú vị nhất trước bàn dân thiên hạ khi các ứng cử viên tranh luận (debate) “tả xung hữu đột” phải nhạy bén, nhanh, nếu “uốn lưỡi bảy làn trước khi nói” như trong thành ngữ Pháp “Il faut tourner sept fois sa langue dans sa bouche avant de parler” thì sẽ hết giờ. Ở đây không bàn về chính trị mà đề cập đến các nhân vật ngày xưa đã sửa lưng như thế nào?.

Chuyện bên Tàu, gia đình Tô gia phụ tử, cụ Tô Lão Toàn (Tô Tuân) có ba người con lỗi lạc: Tô Thức và hai người em là Tô Triệt, Tô Tiểu Muội; cả ba người đều đỗ Tiến sĩ và được nổi danh “Tam Tô khoa bảng” trong thời BắcTống.

Tô Thức (1037-1101), tự là Tử Chiêm, hiệu là Đông Pha cư sĩ. Năm 21 tuổi Tô Thức đỗ tiến sĩ và thời đó, em gái của ông cũng đỗ tiến sĩ, vua Tống Nhân Tông đã ban lời khen cho cả gia đình và cá nhân ông, vì vậy ông mới huênh hoang: “Trong thiên hạ có bốn bồ chữ, ông chiếm hai bồ, hai người em của ông chiếm một bồ, còn một bồ phân phối cho thiên hạ”.

Tô Thức là một trong những nhà thơ tài hoa, lỗi lạc nhất của Trung Hoa, chữ viết như rồng bay phượng múa, văn tài độc đáo, có tài kinh bang tế thế, tuy nhiên với chức quan trong sử quán đời Tống Thần Tông không làm ông vừa lòng với tài ba của mình với “Nhất đại văn gia chi tông” và cùng cha và em là ba nhân vật được liệt kê “Đường Tống bát đại gia”. Cùng thời với ông có Vương An Thạch (1021-1086) là một văn nhân và nhà chính trị có khuynh hướng cải cách táo bạo. Tô Thức làm thơ châm biếm triều đình và bất đồng chính kiến với Tể Tướng Vương An Thạch, cho rằng Vương là con người độc đoán, tự mãn. Tô Thức không ngần ngại chỉ trích mạnh mẽ tân pháp của Tân Đảng do Vương An Thạch cầm đầu vì vậy ông là cái gai của vị Tể Tướng nầy.

Năm 1071, Tô Đông Pha bị cách chức, lưu đày làm tri huyện ở Hàng Châu, Triết Giang. Trong buổi tiễn biệt, thị nữ Xuân Nương muốn theo ông đến tận chân trời góc bể nhưng ông khước từ, nàng tự vận. Chứng kiến hình ảnh đau thương đó, ông lại càng ngông, càng khinh miệt thế nhân. Phong cảnh Hàng Châu rất đẹp, sông nước hữu tình, ông cất nhà ở phía Đông, mang hiệu Đông Pha cư sĩ, vì vậy gọi ông là Tô Đông Pha.

 Đến đời vua Tống Tiết Tông, Tô Đông Pha được triệu về kinh làm Binh Bộ Thượng Thư (Quốc Phòng) kiêm Hàn Lâm học sĩ, được 3 năm, cũng vì tính ngang của ông làm cho bọn quan thần ghen tỵ, sàm tấu nên ông bị giáng chức làm tri huyện ở Hàng Châu, tỉnh Triết Giang. Tại đây, Tô Đông Pha có dịp làm bạn với các nhà sư, đọc sách Phật.

Trong tác phẩm Cái Cười Của Thánh Nhân của Thu Giang đã trích đăng từ “Thiền Truyện” ghi lại câu chuyện làm bài học cho đời.

“Tô Đông Pha, một thi hào Trung Hoa đời Tống có một người bạn chí thân, sư Pháp Diễn.
Am của Pháp Diễn ở bên tả ngạn sông Dương tử, còn nhà của Tô Đông Pha ở bên hữu ngạn.

Ngày kia Tô Đông Pha đến thăm bạn, nhưng bạn đi vắng. Không có gì làm khi ngồi không, ông lấy giấy viết lên mấy câu: “Tô Đông Pha, con nhà Phật vĩ đại mà cả thiên long bát bộ cũng không làm gì lay chuyển được một gang tay”. Viết xong, bỏ đó ra về.

Khi Pháp Diễn về, đọc mấy hàng chữ trên đây, bèn lấy bút ghi thêm: “Nói bậy! những gì anh viết trên đây, chỉ không bằng một cái rắm của ta!” Rồi cho gửi tờ giấy ấy cho Tô Đông Pha.

Giận quá, Tô bèn xuống thuyền, vượt qua sông to, tìm đến Pháp Diễn. Gặp mặt, Tô vừa chụp tay, vừa quát to:

- Anh là hạng người gì mà dám ăn nói với tôi như thế, tôi không phải là một Phật tử trung thành với đạo pháp sao? Anh biết tôi lâu rồi mà! Tại sao anh lại có thể mù quáng đến thế!

Pháp Diễn nhìn bạn, mỉm cười, bình tĩnh đáp:

- À! thì ra nhà đại thi hào Tô Đông Pha, người Phật tử vĩ đại đã thách cả thiên long bát bộ không sao lay chuyển được một gang tay, vậy mà chỉ bị có một tiếng rắm nhẹ kia đã phải từ bên kia đại trường giang bay tuốt đến đây, sao lại có chuyện lạ nhỉ!”.

Giai thoại khác vẫn tương tự như trên nhưng có vẻ thâm thúy hơn. Tô Đông Pha thân quen với Pháp Diễn đạo sư, còn gọi là đại sư Phật Ấn. Tô cho mình là nhà Phật học uyên bác, thơ của mình siêu thoát chốn phàm trần. Một hôm, Tô đến thăm đại sư, vắng chủ. Tô lấy giấy viết “Bát phong suy bất động...” tự cho mình con người “vĩ đại”, cả thiên long bát bộ cũng không làm gì lay chuyển được gang tay.

Khi đại sư về thấy lời thơ trịch thượng của Tô, bèn viết ngay chữ “thí”, cho đồ đệ mang sang đưa cho Tô. Thấy chữ “thí” - nghĩa: tiếng địt, đánh rắm - Tô giận quá, xuống thuyền, vượt sông sang “vấn tội” đại sư. Nhìn nét mặt hằm hằm của Tô, đại sư mỉm cười, thản nhiên đáp:

- Nhà thơ vĩ đại, cả thiên long bát bộ không sao lay chuyển được gang tay, chỉ có tiếng địt, đã vượt trường giang, bay sang đây, sao lại có chuyện lạ nhỉ?. Rồi đọc tiếp câu thơ: Bát phong suy bất động - Nhứt thí mã quá giang (Gió tám phương thổi tâm không động - Một chữ rắm xì đã vội vã vượt sông).

Nhà thơ vô cùng kiêu ngạo, ngạo nghễ, chiếm hết hai bồ chữ trong thiên hạ. Khi về miền sơn cước mới vỡ lẽ chưa biết tường tận đã sửa lưng người khác và bị nhà sư sửa lưng một cú rất thấm thía.

Đơn cử trường hợp khác về nhà thơ tài hoa Tô Đông Pha với sự trả đũa vô cùng thâm thúy của Vương An Thạch cũng đang nổi tiếng nhà thơ, nhà văn, uyên bác, thông suốt kinh sử, đại quan của triều đình.

Một hôm, Tô Đông Pha vào yết quan Tể Tướng, nhân lúc Vương An Thạch nghỉ trưa, ngồi đợi bên án thư, nhà thơ họ Tô thấy bản thảo tập thơ của Vương nên cầm lấy xem. Khi đọc đến bài ngũ ngôn tứ tuyệt, có hai câu thơ:

“Minh nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm”.

Tô Đông Pha buồn cười cho rằng Vương An Thạch làm thơ lẩm cẩm, trăng sáng mà “kêu” đầu núi, chó vàng mà “nằm” nhụy hoa! chẳng ra thể thống gì cả. Tô bèn lấy bút chữa hai chữ “khiếu” thành “chiếu”, “tâm” thành “âm” - sửa lưng nhà thơ Tể tướng chơi.

“Minh nguyệt sơn đầu chiếu
 Hoàng khuyển ngọa hoa âm”.
 (Trăng sáng chiếu đầu núi
 Chó vàng núp bóng hoa).

Vương An Thạch nhận thấy Tô Đông Pha chưa hiểu rộng biết xa mà ngang nhiên sửa lưng nhưng vẫn thản nhiên, đợi lúc nào đó cho chàng mở mắt nhận thức.

Khi Tô Đông Pha mang tội làm thơ châm biếm triều đình, bị đại quan Vương An Thạch đày ra Hàng Châu. Nơi miền sơn lâm nầy Tô Thức cư sĩ có dịp ngao du mới biết có loài chim gọi là Minh Nguyệt và loài sâu gọi là Hoàng Khuyển.

“Chim Minh Nguyệt hót ở đầu núi
 Sâu Hoàng Khuyển nằm giữa đóa hoa”

Vương An Thạch đã tả cảnh chốn núi rừng nầy chim Minh Nguyệt kêu đầu núi, sâu Hoàng Khuyển nằm giữa nhụy hoa. Tuyệt.

Hình ảnh Tô Đông Pha, sau thời gian bị lưu đày đi xa, được học học sàng khôn, tâm tính khoáng đạt. Sau khi Vương An Thạch qua đời, Tô Đông Pha đã ngợi ca: “Vương An Thạch thuở nhỏ học Khổng Mạnh, cuối đời theo Mặc Địch, Lão Đam, thu thập di văn lục nghe, lấy ý mình quyết đoán, trở thành một kỳ nhân mới mẻ”.

Chuyện bên Tây, hai nhà tư tưởng nổi tiếng, Voltaire (1694-1778) & Jean-Jacques Rousseau (1712-1778). Voltaire nổi tiếng trước, lúc đầu J.J Rousseau ngưỡng mộ Voltaire nhưng sau đó hai ông có nhiều tranh cãi tư tưởng và sau này ghét nhau. Tác phẩm Candide, viết theo lối châm biếm, nhạo báng và phê bình các tổ chức và tầng lớp lớn lao trong xã hội thời đó…

“Jean-Jacques làm triết gia” Voltaire từng nói, “giống như khỉ làm người”: hao hao nhưng không bao giờ bằng.  Voltaire chửi rất đau.

Đúng vậy, một lý do khác giữa hai ông là Rousseau hai nghiêm trọng, nhưng Voltaire là vua châm biếm.  Vì châm biếm mà ông vào tù Bastille một thời gian.  Vì châm biếm mà ông phải bỏ Pháp qua nước khác vài lần. Voltaire sáng tác rất nhiều tác phẩm: kịch; thơ; luận về xã hội, chính trị, văn hóa; và nhất là quyển Từ Điển Triết Học (Dictionnaire Philosophique) dầy cộm và quan trọng nhất thời đó.  Nhưng tác phẩm phổ thông nhất của ông là quyển tiểu thuyết mỏng có tựa đề tên nhân vật chính Candide. Tiểu thuyết viết theo lối châm biếm, tức là hài hước loại phê bình nặng nề làm độc giả vừa cười vừa khóc như không phải tếu lâm đơn thường. 

Về quan điểm, với Voltaire tư tưởng tự do tiến bộ (liberal): Con người phải chế ngự tự nhiên qua lý trí. Ca ngợi văn minh, khoa học, nghệ thuật. Châm biếm thần quyền, hoài nghi Thượng Đế. Ủng hộ tự do cá nhân. Văn minh làm con người tha hóa. Tin vào Thượng đế tự nhiên (Deism), đạo đức nội tâm. Voltaire muốn cải cách ôn hòa hơn vì tin vào lý trí con người. Rousseau tư tưởng cách mạng cấp tiến (radical), ca ngợi trực giác, bản năng và thiên tính con người. Ông đặt con tim trên trí óc, tinh thần cách mạng, cải cách xã hội vì xã hội lúc giờ tổn thương quá nặng bình đẳng và tự do con người.

Với quan niệm mỗi người mỗi ý nhưng “Hai hổ không thể nhốt chung một chuồng” và Voltaire tự coi bản thân như bậc đàn anh mà Roussaeau đâu phải vừa nên nên không chấp nhận lời phê bình của nhà tư tưởng “đàn anh”.

Voltaire chửi “Jean-Jacques làm triết gia”… “giống như khỉ làm người”: hao hao nhưng không bao giờ bằng. 

Bức thư của Rousseau gửi Voltaire ngày 18/8/1756: “Ông Voltaire giống như con chó già trong chuồng: nó gặm xương một cách khôn ngoan, nhưng sủa vào mọi thứ nó không thể ăn”.

Với hai nhân vật tên tuổi mà khi xung khắc dùng lời lẽ thiếu tế nhị, thật đau lòng. Đến khi cả hai đều nhắm mắt xuôi tay, cùng nằm gần nhau, mộ phần tại điện Panthéon là niềm hãnh diện, ai là cao nhơn (?), tùy suy ngẫm của mỗi người.

Câu nói bất hủ của Voltaie: “Những tư tưởng lớn thường gặp nhau” (Les beaux esprits se rencontrent) những giữa ông và J.J. Rousseau thì nghịch nhau! Đời là thế “Nói một đằng, làm một nẻo” nhan nhản trong cuộc sống, nhất là các “ông thần” làm chính trị!

Chuyện nước ta, vào thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn (1726-1784), học giả uyên bác, thuở còn trai trẻ nổi danh thần đồng, thông minh lanh lẹ. Năm 18 tuổi, Lê Quý Đôn thi Hương đỗ Giải nguyên, 27 tuổi đỗ Hội nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng Nhãn vào bậc lỗi lạc, văn hay chữ tốt, kiến thức đầy mình khó ai sánh kịp.

Với tuổi trẻ mang mặc cảm tự tôn nên kiêu ngạo, tự cao tự đại, cho treo tấm biển “Thiên hạ nghĩ nhất tự lai vấn” (Thiên hạ có chữ gì không biết, cứ lại mà hỏi), giống như lời Tô Đông Pha. Thế rồi một hôm vị Sa Di nhà chùa ghé ngang, gặp ông đố giải chữ “nhất” ông bị lúng túng và khi thân phụ ông qua đời, vị túc nho tới phúng điếu, nhờ ông viết hộ, nhà nho chẩm rải đọc chữ “chi, chi, chi”, ông không biết viết chữ “chi” nào... Ông cứ chần chừ không hạ bút chữ chi nào. Ông nhìn lên thấy vị Sa Di vẫn thản nhiên đợi ông hạ bút! Phải chăng cái thâm của nhà nho làm cho ông sực tỉnh và gỡ tấm biển đi?. Nhắc lại câu chuyện của bậc tiền nhân lúc trẻ không có dụng ý bôi bác mà làm bài học tuổi trẻ cao ngạo cho hậu thế. Giai thoại nói vậy nhưng cũng oan cho ông bởi khi đọc “chi, chi, chi” không lẽ viết ra một số chữ chi.

Theo Tự Điển Việt Hán Nôm, chữ chi đơn giản nhất có 2 nét (làm chi, hèn chi), với các bộ thì ý nghĩa khác nhau: bộ chỉ là chi ly, bộ tiết, bộ kỷ chi là bình rươu ngày xưa, bộ khẩu chỉ tiếng cửa kẹt mở, bộ khẩu là tiếng chim non kêu, bộ chi là chi ly, bộ mộc là nhánh cây, bộ nhục là tứ chi,bộ điểu, bộ thảo, bộ thủ…

Theo Tự Điển Thiều Chửu thì chữ chi có nhiều cách viết nào là trưởng chi, con thứ. Tránh, nhánh: (dòng tránh). Nếu có một dòng mà chia thành nhiều dòng ngang thì được gọi là chi cả. Giữ, cầm, cố sức ứng phó: (chi trì). Tính: (tính toán). Chia rẽ: (chi li, vụn vặt). Địa chi: chỉ 12 chi (Tí, Sửu, Dần, mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Chân tay (tứ chi). Cành, nhánh)… Tôi dốt chữ Hán, Nôm nên không lạm bàn và không muốc lạc nội dung.

Thành ngữ ta có câu “Đi một đàng học một sàng khôn” vì vậy sau cụ Lê Quý Đôn làm quan, các đợt đi công cán ở các vùng Sơn Nam, Tuyên Quang, Lạng Sơn những năm 1772, 1774, làm nhiệm vụ điều tra nỗi khổ của người dân cùng tệ tham nhũng, ăn hối lộ của quan lại, khám đạc ruộng đất các vùng ven biển bị địa chủ, cường hào địa phương man khai, trốn thuế…

Chính nhờ quãng thời gian đi nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều việc đời như vậy nên cụ viết trong lời tựa sách Kiến Văn Tiểu Lục: “Tôi vốn là người nông cạn, lúc còn bé thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm quan, xem lại sách đã chứa trong tủ, vâng theo lời dạy của cha, lại được giao du nhiều với các bậc hiền sĩ đại phu. Thêm vào đấy phụng mệnh làm việc công, bốn phương rong ruổi: mặt bắc sang sứ Trung Hoa, mặt tây bình định Trấn Ninh, mặt nam trấn thủ Thuận Quảng (Thuận Hóa, Quảng Nam). Đi tới đâu cũng để ý tìm tòi, làm việc gì mắt thấy tai nghe đều dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận sơ qua, giao cho tiểu đồng đựng vào túi sách”.

Cụ Lê Quý Đôn đúng là bậc thức giả chân chính, tấm gương sáng cho hậu thế, từ tuổi trẻ kiêu ngạo đến khi tiếp xúc với các bậc hiền sĩ đại phu đã tự cho tuổi trẻ là “người nông cạn”. Tuổi trẻ cao ngạo nên bị sửa lưng, khi về già đã “học được sàng khôn” nên tự bộc bạch sửa lưng bản thân, đúng là bậc thức giả chân chính. Tuổi trẻ cao ngạo nên bị sửa lưng, khi về già đã “học được sàng khôn” nên tự bộc bạch sửa lưng bản thân, đúng là bậc tri thức đáng kính.
Vài tác phẩm của cụ Lê Quý Đôn đã lưu lại hậu thế rất giá trị như: Vân Đài Loại Ngữ, Đại Việt Thông Sử và Kiến Văn Tiểu Lục, tập bút ký nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời Trần đến đời Lê…

Ngôi trường trung học cổ nhất Sài Gòn là Collège Indigène thành lập năm 1874, sau đó được đổi thành Collège Chasseloup Laubat, theo tên Bộ Trưởng Hải Quân Pháp. Sau năm 1954 trường được đổi tên là Jean Jacques Rousseau. Năm 1967, trường trở thành trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn. Ở Nha Trang cũng có trường trung học Lê Quý Đôn nằm trên đường cùng mang tên.

Nhân sinh, không biết mà thưa thốt thì hằng hà sa số. Thời nào, ở đâu cũng vậy. Có vậy mới vui, mới bát nháo, có chuyện để bù khú với nhau. Thiếu nó, chán bỏ bu. Ngậm miệng như mấy tên nghị gật, như đại biểu nhân dân nhà nước chỉ biết “nhất trí” để bị giống nòi khinh khi, phỉ nhổ.

Nói đến cái ngông là nói đến cái vô tận của người cầm bút từ xưa đến nay đã để lại không biết bao giai thoại, hình ảnh được lưu truyền. Chọn cuộc sống bằng cái nhìn khuynh khoát, thái độ khinh bạc thế nhân và tự nó cũng rước lấy lắm điều chua cay!. Một trong những khuôn mặt tiêu biểu trong văn học Việt Nam cho cái ngông được ghi lại: nhà thơ Cao Bá Quát.

Cao Bá Quát (1808-1855) hiệu Chu Thần, cùng anh là Cao Bá Đạt, khoa thi Tân Mão 1831 (Thiệu Trị thứ 12) trong kỳ thi hương, ông đổ Thủ khoa, còn anh là Cao Bá Đạt đậu Á khoa.

Tuy nhiên, ông lại trượt cả 2 kỳ thi Hội vì không chịu theo khuôn phép trường thi; từ đó ông có thái độ bất mãn, ngao du đó đây, bầu bạn với thơ túi rượu bầu, lấy văn chương làm thú vui tiêu khiển. Ông là người văn hay chữ tốt, có thái độ ngạo mạn. Khi nhà vua ra câu đối “Nhất bào song sinh...”, ông đáp lại “Thiên tải nhất ngộ...” đủ thấy cái “lối” của Chu Thần. Ông được vua Tự Đức ngợi ca “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán”. Được thể, ông càng ngạo nghễ, khi dễ cả vua vì vậy sau nầy ông tự chuốc lấy bao điều bất hạnh cho mình.

Trong cái ngông nghênh, kiêu ngạo, cho mình quán thông nên đã “show off” câu nói để đời: “Trong thiên hạ có bốn bồ chữ, ông chiếm hai bồ, anh ông chiếm một bồ, còn một bồ phân phối cho thiên hạ”.

Thật ra, câu nói ấy, Cao Chu Thần đã bắt chước cái ngạo mạn của Tô Đông Pha đời Tống  ở Trung Hoa.

Theo Đại Nam Thực Lục, tháng 8/1841, Cao Bá Quát được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Thấy một số bài thi hay nhưng có chỗ phạm trường quy, ông bàn với đồng sự là Phan Thời Nhạ lấy son hòa với muội đèn chữa lại 24 bài. Khi sự việc bại lộ, Cao Bá Quát nhận tất cả lỗi về mình. Sau khi án được dâng lên vua Thiệu Trị, tất cả các thành viên đều bị xử tội với những mức phạt khác nhau. Cao Bá Quát và Phan Thời Nhạ bị tội tử hình. Vua Thiệu Trị thấu hiểu nỗi lòng của cao Bá Quát nên ra lệnh tha tội chết cho ông với lời phán rằng “Chọn người tài giỏi là một điển lễ long trọng, bọn Quát dám làm trái phép như thế, khép vào tội nặng cũng đáng. Song ta nghĩ do sự khờ dại mà làm ra, chứ không có tình tiết gì khác, còn có thể khoan tha cho tội xử tử…". Nhờ đó, ông bị tống ngục.

Sau gần 3 năm bị giam, vì có công trạng nên được vào Viện Hàn Lâm để lo việc sưu tầm và xếp đặt văn thư. Bởi khí phách không được lòng một số quan lớn trong Triều, năm 1850, Cao Bá Quát bị đày đi làm giáo thụ ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây cũ). Đến cuối năm 1850, đời vua Tự Đức, ông lấy cớ về quê chịu tang cha, sau đó xin ở lại nuôi mẹ già để thôi chức.

Cuộc khởi nghĩa Cao Bá Quát (1854-1856) ở Hà Tây bị thất bại, khi lên pháp trường  ông ứng khẩu hai câu:

“Ba hồi trống dục đù cha kiếp
Một nhát gươm đưa đéo mẹ đời”

Tuổi trẻ Cao Bá Quát cao ngạo nhưng sau nầy ông trở thành con người cương trực, dám làm dám chịu và coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.

Trong cuộc chiến xảy ra giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn với hai nhân vật qua hai câu đối đã  lưu lại hậu thế trải hơn hai thế kỷ. Tôi đã viết khá lâu, nay nhắc lại.

Ngô Thì Nhậm, Ngô Thời Nhiệm (1746-1803) là danh sĩ nổi tiếng ở Bắc hà vốn là quan dưới thời vua Lê - chúa Trịnh. Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc cầu hiền, ông cùng nhiều quan lại cũ phục vụ cho Tây Sơn, được thăng đến Thượng Thư Bộ Lại. Trong thời gian này, có nho sĩ là Đặng Trần Thường (1759-1816) đến gặp mặt xin làm quan. Tuy nhiên nhìn điệu bộ khúm núm, Ngô Thì Nhậm coi thường mà nói rằng:

- Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác.

Đặng Trần Thường hổ thẹn nên bỏ vào Nam theo Nguyễn Ánh. Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây Sơn, lên ngôi vua Gia Long. Đặng Trần Thường gặp lại Ngô Thì Nhậm đang bị chịu tội tại Văn Miếu, bèn ra câu đối:

- Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai

Ngô Thì Nhậm khẳng khái đáp:

- Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế 

Đặng Trần Thường tức giận ngầm sai người tẩm thuốc độc vào roi. Sau những người bị đánh đều bình phục, chỉ có Ngô Thì Nhậm bị thuốc độc ngấm vào tạng phủ, biết mình không qua khỏi. Giai thoại cho rằng trước khi qua đời ông ứng khẩu bài thơ gửi tặng Đặng Trần Thường như sau:

“Ai tai Đặng Trần Thường
Chân như yến xử đường
Vị Ương cung cố sự
Diệc nhĩ thị thu trường”.

(Thương thay Đặng Trần Thường, quyền thế lắm đấy nhưng như chim yến làm tổ trong nhà sắp cháy rồi tai ương sẽ đến. Giống như Hàn Tín giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang rồi bị Cao Tổ giết ở Vị Ương. Kết cục của ngươi cũng thế).

Quả nhiên sau này bài thơ ứng nghiệm, Đặng Trần Thường bị vua Gia Long xử tử. Cả hai nhân vật có tài lỗi lạc với cái chết bi thảm nhưng hình ảnh sĩ phu Ngô Thì Nhiệm lưu lại trang sử còn Đặng Trần Thường vì trả thù thành kẻ tiểu nhân. Và hai câu đối đó cho thấy lúc cụ Ngô Thì Nhậm sắp chết đã ứng xử cao tay hơn kẻ thù.

Vào hậu bán thế kỷ XIX, Phan Văn Trị (1830-1910) & Tôn Thọ Tường (1825-1877), lúc đầu cả hai ở trong nhóm Bạch Mai Thi Xã nhưng sau đó vì thời cuộc trở thành chiến tuyến đã bút chiến qua thơ trong giai đoạn thăng trầm của lịch sử.

Cụ Phan Văn Trị là nhà thơ, chí sĩ yêu nước, tiêu biểu sĩ khí của người dân Nam Bộ như các cụ Nguyễn Hữu Huân, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt. Năm Kỷ Dậu (1849) thi Hương tại trường thi Gia Định và đỗ cử nhân. Tuy đỗ đạt cao nhưng cụ không ra làm quan, mà về mở trường dạy học. Trong thời kỳ Pháp thuộc cụ Nguyễn Đình Chiểu và cụ bất mãn với triều đình Huế, dùng ngòi bút chiến đấu chống thực dân Pháp.

Trong khi đó Tôn Thọ Tường lại đi ngược lại quan điểm nên hợp tác và xảy ra cuộc bút chiến với nhau qua mười bài Tự Thuật.

Tôn Thọ Tường với bài Từ Thứ Quy Tào theo tích Từ Thứ bỏ Lưu Bị về hàng Tào Tháo. Mượn chuyện Từ Thứ, Tôn Thọ Tường muốn thanh minh rằng mình theo Pháp chẳng qua cũng chỉ là chuyện chẳng đặng đừng chớ cái tình đối với bè bạn cũ, cái nghĩa đối với sơn hà xã tắc. Tôn Thọ Tường cho rằng, mất nước là định mệnh của dân tộc, có hy sinh bao nhiêu xương máu cũng chỉ uổng công vô ích nên ca ngợi sức mạnh quân sự của Pháp.

Cụ Phan Văn Trị cho rằng cuộc chiến đấu của dân tộc không phải vô vọng như chuyện như chuyện lấy thước đo trời hay bắc cầu qua biển, tuy những tổn thất của phong trào yêu nước, song sự tổn thất ấy cũng như chim hồng không may rụng mất mấy cái lông, mà “Hồng dẫu hư lông đâu sợ sẻ” và  kết luận:

“Đứa dại trót già đời cũng dại,
Lựa là tuổi mới một đôi mươi”.

Hai cụ dùng thơ với tích xưa bên Tàu để đối đáp nhau nhưng cho tháy thế thượng phong của cụ Phan Văn Trị. Những bài thơ yêu nước và sĩ khí của cụ Phan Văn Trị được giảng dạy trong chương trình và sách giáo khoa môn Quốc văn (Việt văn) bậc trung học ở miền Nam Việt Nam trước 1975.

Năm 1871, Tôn Thọ Tường được thăng Đốc Phủ Sứ. Năm 1877, trong lần theo viên lãnh sự Pháp đi quan sát miền thượng du Bắc Kỳ, mắc bệnh sốt rét ác tính rồi mất.

Thời Việt Nam Cộng Hòa có tên đường hai cụ nhưng (hình như) chỉ có tên trường trung học Phan Văn Trị.

“Ôn cố tri tân”, xin nhắc lại chuyện xưa đã đi vào văn học. Cứ gọi nôm na chuyện sửa lưng cho tiện sổ sách.

Cái thâm của nhà nho ngày xưa trị nhau khi bị sửa lưng. Nó nhẹ nhàng, từ tốn, lịch sự, không ồn ào với đao to búa lớn, không hùng hổ với ngôn ngữ hàng tôm hàng cá, cái hay của nó ở chỗ thâm thúy và sự cảm hóa.

Người xưa thường nói “Cao nhơn tắc hữu, cao nhơn trị”. Dù có tài ba lỗi lạc đến đâu mà huênh hoang tự đắc có ngày cũng bị tổ trác... Khiêm nhường là đức tính cao đẹp nhất trong việc xử thế, trong đạo làm người.

Thuở còn đi học, thầy giáo đã dạy cho sự khiêm nhường, nhắc lại câu nói của Rivarol làm bài học để nhớ: “Có điều gì cao hơn kiêu căng và sang hơn háo danh, đó là sự khiêm nhường” nhưng biết khiêm nhường để tự đề cao khó hơn khiêm nhường để bị hiểu lầm khờ khạo?.

Nói chuyện sửa lưng, không ai bằng ta với ta!. Càng hiểu rộng, càng có ý tứ thâm trầm và tế nhị, vấn đề sửa lưng càng độc đáo. Trong cuộc sống của chúng ta, có lẽ nhiều lần vấp phải bị sửa lưng, cũng là chuyện bình thường. Tốt, xấu tùy theo tinh thần xây dựng hay đố kỵ ganh ghét. Hình như quý cụ ông, tính thẳng như ruột ngựa nên bị quý cụ bà, thâm thúy, tế nhị sửa lưng? Sửa gì thì sửa nhưng lưng không còng (khom lưng) là quý rồi. Quý vị nghĩ sao?.

Little Saigon, July 2025
Vương Trùng Dương

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thường gặp phải bao chuyện xảy ra họa (rủi ro) và phúc (may mắn). Khi có người bị họa thì lấy thành ngữ “Tái ông thất mã” nghĩa Hán Việt: Tái là “cửa ải”, Ông là “ông lão, ông già”, Tái ông là “ông già sống gần biên ải” ám chỉ khi người gặp họa trước thì may mắn được phúc sau. Thông thường thì thành ngữ nầy chí với tự bản thân để an ủi. Trong Tự Điển Hán Nôm thì phúc và phước viết giống nhau. Theo cách gọi miền Bắc là phúc, Trung và Nam là phước. Với phước, họa thì khôn lường được. Câu nói Lưu Hướng trong Thuyết Uyển “Phúc bất trùng chí, họa tất trùng lai”, phúc chỉ may mắn một lần, họa thì liên miên. Hay “Phúc vô song chí, họa bất đơn hành”.
“Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm. Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”: Khi không có người chỉ huy, kẻ xấu làm bậy. “Gà tức nhau vì tiếng gáy”: Tính ganh đua, đố kỵ, không chịu kém người khác. “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”: Cậy thế ỷ lại, bắt nạt người khác. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”: Khuyên bản thân có bản lãnh thì ra ngoài xã hội, anh chị em trong nhà nên đoàn kết, gắn bó với nhau cùng nghĩa tương tự như “Gà nhà lại bới bếp nhà”: Chê cùng phe cánh lại phá hoại lẫn nhau. “Gà què ăn quẩn cối xay”: Chê những người không có ý chí. “Học như gà đá vách”: Chê những người học kém. “Lép bép như gà mổ tép”: Chê người ngồi lê mách lẻo. “Lờ đờ như gà ban hôm”: Quáng gà, chê người chậm chạp, không hoạt bát
Câu nói để đời của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó”. Làm kẻ thù với Mỹ chỉ trực tiếp đối đầu còn làm bạn với Mỹ phải chấp nhận yêu sách, quyền lợi của Mỹ… nếu không sẽ bị “đá giò lái, đâm sau lưng” và có lúc bị bán đứng đất nước!
Tuổi 18 có thực sự là ngưỡng cửa của trưởng thành? Không ai lớn lên giống ai, và hành trình trưởng thành cũng chẳng thể đo đếm bằng một con số. Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với cột mốc 18 tuổi – độ tuổi mà luật pháp nhiều nơi, bao gồm Hoa Kỳ, công nhận một cá nhân chính thức bước vào tuổi trưởng thành và phải chịu trách nhiệm hình sự như người lớn. Thế nhưng, câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó.
Tình hình thế giới hình như đang rối lung tung, náo loạn như từ khi tổng thống Mỹ nhậm chức nhiệm kỳ II. Ông ở ngôi mới được hơn 100 ngày chút xíu, mà nhiều rắc rối quá, đối ngoại thì như mỗi ngày ông đưa ra những quyết định trừng phạt thế giới về kinh tế và thương mại bằng cách tăng thuế vào các hàng hóa của bất kỳ quốc gia nào nhập khẩu và Hoa Kỳ từ 10 đế 50% và hơn thế nữa.
Thông thường, sau một ngày dài bận rộn, ai cũng nghĩ rằng đến khi đặt lưng xuống giường thì cơ thể sẽ mệt mỏi rã rời. Thế nhưng đôi khi, điều ngược lại lại xảy ra: thay vì cảm thấy mệt và buồn ngủ, chúng ta lại bất ngờ cảm thấy tỉnh như sáo, tràn đầy năng lượng, trằn trọc mãi chẳng thể nào chợp mắt.
Bộ đồ lòng dĩ nhiên gồm có…lòng. Nhưng lòng lại chia ra nhiều loại: lòng non, phèo, lòng già, khố linh. Khố linh là phần cuối của lòng già, ăn rất giòn, béo vì có lớp mỡ bên trong. Đó là điểm cộng của khố linh. Điểm trừ là khố linh rất hôi, có lẽ đây là lý do có chữ “khố” nằm vùng ở đây. Bàn ngang một chút: lòng còn chỉ “lòng dạ”, một từ không dính dáng chi tới chuyện ngon hay dở. Nghĩa bóng của “lòng dạ” chỉ liên quan tới con người, còn bò heo gà thì chỉ có một nghĩa. Ngoài lòng, bộ đồ lòng còn bao gồm tim, gan, bao tử, dồi trường. Dồi trường chỉ có ở heo nái. Tùy theo tuổi heo, dồi trường to hay nhỏ. Loại ngon nhất là dồi trường của heo nái đẻ hai hoặc ba lứa. Nhưng ít thực khách biết chuyện này nên cứ đòi dồi trường to, vừa đắt vừa không ngon.
Hãy tưởng tượng quý vị đang đứng ngay cạnh xác tàu Titanic huyền thoại, chậm rãi dạo quanh một vòng và chiêm ngưỡng kích thước đồ sộ của con tàu. Quý vị có thể ghé vào phòng chứa lò hơi (boiler rooms), ngắm nghía các bảng điều khiển, thậm chí nhìn thấy số ID 401 của tàu được khắc trên cánh chân vịt. Những dải nhũ xốp gỉ sét (rusticles) lặng lẽ bám quanh thân tàu. Rải rác trên mặt đất là những mảnh kim loại đã biến dạng và đồ đạc cá nhân của những nạn nhân xấu số trong thảm kịch năm xưa.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.