Hôm nay,  

ADHD Không Chỉ Ở Trẻ Em: Người Lớn Cũng Có Thể Mắc Bệnh Mà Không Hay Biết

24/10/202500:00:00(Xem: 333)

ADHD
Nhiều người trưởng thành rồi mới biết mình bị ADHD, sau nhiều năm bị hiểu lầm là “lười biếng.” Các khoa học gia cho biết những yếu tố di truyền, phản ứng hóa học trong não và môi trường đều góp phần gây ra căn bệnh này. (Nguồn: pixabay.com)

Từ nhỏ, Dustin Chandler đã luôn bị thầy cô phàn nàn vì không bao giờ làm bài tập về nhà. Trong mắt mọi người, Chandler là một cậu học trò “
lười biếng.” Nhiều năm sau, khi mẹ anh, lúc này đang làm việc tại một phòng khám nhi khoa, nhìn thấy anh loay hoay sửa sang căn nhà đầu tiên, bà mới nhận ra có điều gì đó không ổn. “Con à,” bà nói, “có lẽ con cần đi khám bệnh xem có bị ADHD không.
 
Năm 25 tuổi, Chandler được chẩn bệnh là mắc chứng rối loạn tăng động/giảm chú ý (ADHD, một bệnh tiến triển do sự thiếu chú ý và đãng trí, kém hoặc không tăng hoạt động). Khi biết bệnh này có thể di truyền, vợ chồng Chandler bắt đầu theo dõi những dấu hiệu tương tự ở các con. Bé gái thứ hai khá giống cha: ít nói và hay mơ màng. Cô bé thích đọc sách một mình; khi được thầy cô dạy riêng, bé học rất tốt. Nhưng đến lúc vào tiểu học, hai vợ chồng bắt đầu thấy lo. Trong một cuộc thi toán, học sinh phải giải thật nhanh nhiều bài toán trong vòng một phút, cô bé làm bài quá chậm. Năm học lớp Hai, bé được chẩn bệnh là mắc ADHD.
 
Các bác sĩ và nhà nghiên cứu hiện vẫn chưa tìm được nguyên nhân chính xác gây ra ADHD. Theo giáo sư Stephen Rush, chuyên gia tâm thần học tại Đại học Cincinnati, nguyên nhân thường được cho là do yếu tố di truyền và các hoạt động diễn ra trong não bộ. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng có đến 80% người bị ADHD có những yếu tố di truyền giống nhau, rất khác so với những người không bị.
 
Các khoa học gia gần đây đã phát hiện ra não bộ của người mắc ADHD không hoạt động giống như người bình thường, đặc biệt là đối với dopaminenorepinephrine. Đây là hai chất quan trọng giúp chúng ta tỉnh táo và tập trung. Nhưng ở người mắc ADHD, dopaminenorepinephrine bị tiêu hao nhanh hơn, khiến họ rất khó tập trung, chú ý điều gì đó.
 
Dopamine giúp ta có động lực, tập trung và cảm nhận được phần thưởng,” bác sĩ Frances Javier, chuyên gia tâm thần học kiêm giám đốc y khoa tại Neuro Wellness Spa (California) giải thích. “Còn norepinephrine thì giúp ta tỉnh táo, chú ý và thấy thích thú. Hai chất này cũng là mục tiêu chính của các loại thuốc điều trị ADHD.
 
Yếu tố di truyền cũng có thể liên quan đến sự thay đổi trong não bộ khiến bệnh nhân ADHD khó kiểm soát cảm xúc và tập trung. Rush cho biết: “Cấu trúc gene trong não của chúng ta rất phức tạp. Có hàng trăm gene khác nhau, mỗi gene ảnh hưởng một phần nhỏ, và chính sự kết hợp đó, cùng với tác động của môi trường sống, góp phần làm tăng cơ nguy mắc ADHD.
 
Các nghiên cứu di truyền học mới đang dần tìm ra những gene góp phần hình thành ADHD. Một nghiên cứu đăng trên Nature Genetics đã phát hiện nhiều gene hoạt động mạnh trong giai đoạn phát triển của não bộ. Theo Sandra K. Loo, Giám đốc khoa Thần kinh Nhi khoa và Giáo sư Tâm thần học tại Trường Y Khoa David Geffen thuộc UCLA, “nhiều nghiên cứu gần đây nhận thấy có 27 biến thể gene thường gặp ở người bị ADHD. Càng có nhiều những biến thể này thì cơ nguy mắc bệnh càng cao.
 
Tuy nhiên, không phải ai bị ADHD cũng do cùng một nguyên nhân. Mỗi người đều có sự kết hợp khác nhau của nhiều yếu tố. Javier cho biết: “Gene của chúng ta chịu ảnh hưởng rất lớn từ môi trường sống và cách các gene tương tác với nhau. Vì vậy, cơ địa, mức độ tiếp xúc với hóa chất, môi trường sống xung quanh hay thói quen ăn uống đều có thể ảnh hưởng đến việc ADHD sẽ hình thành và biểu hiện ra sao.
 
Trường hợp của Chandler có vẻ là di truyền từ cha sang con, nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng một số yếu tố trong thai kỳ hoặc sau khi vừa chào đời cũng có thể góp phần gây ra bệnh. “Có mối liên quan chặt chẽ giữa ADHD và các yếu tố như người mẹ hút thuốc, mập phì, tiền sản giật trong thai kỳ hoặc sử dụng acetaminophen. Riêng tác động của acetaminophen vẫn còn gây nhiều tranh cãi,” Rush cho hay.
 
Một nghiên cứu đăng trên Tạp chí Tâm lý và Tâm thần Trẻ em (Journal of Child Psychology and Psychiatry) cũng chỉ ra rằng nếu bị nhiễm trùng khi mang thai, nhất là khi người mẹ bị sốt, có thể làm gián đoạn sự phát triển não bộ của thai nhi. Javier chia sẻ: “Điều này cũng phần nào lý giải cho giả thuyết tại sao trẻ sinh ra vào tháng 9 về sau dễ bị mắc ADHD (thường trùng với mùa đông, khi bệnh truyền nhiễm lưu hành nhiều, mẹ dễ mắc bệnh và sốt).” Tuy nhiên, bà cũng lưu ý rằng hiện tượng này có thể bị ảnh hưởng bởi thời điểm tuyển sinh của trường học: những trẻ sinh vào cuối năm thường nhỏ tuổi nhất trong lớp và dễ bị chẩn bệnh ADHD do chậm phát triển hơn so với các bạn cùng trang lứa.
 
Ngoài các yếu tố trong thai kỳ, môi trường cũng có thể góp phần dẫn tới bệnh ADHD. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa việc tiếp xúc với chì ở trẻ nhỏ và các triệu chứng của ADHD. Các hóa chất trong đồ nhựa như phthalatesbisphenol A (BPA) cũng bị nghi ngờ có liên quan. Loo cho biết: “Trong số các hóa chất độc hại, tiếp xúc với lượng chì cao có liên quan mạnh nhất với cơ nguy bị ADHD.
 
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa các yếu tố di truyền và môi trường vẫn chưa được nghiên cứu tường tận. Theo Rush, có rất nhiều yếu tố cùng góp phần gây ra những thay đổi trong não bộ, và chúng ta gọi chung là ADHD vì những triệu chứng mà các thay đổi đó tạo ra.
 
Học cách thích nghi để sống tốt hơn
 
Với Chandler, hiểu rõ căn bệnh đã giúp anh và gia đình thích nghi dễ dàng hơn trong cuộc sống thường ngày. Anh hiện đang làm kỹ thuật viên, tận dụng sự khéo tay, tỉ mỉ trong công việc và niềm đam mê mô tô. Sau khi con gái được chẩn bệnh bị ADHD và học trong trường công được vài năm, vợ chồng anh quyết định cho bé học tại nhà. Cô bé tiến bộ rất nhanh vì được học theo tốc độ phù hợp với mình.
 
Giờ đây, cô bé đã là thiếu nữ, rất yêu thích các môn giải phẫu học và sinh học. Cô đang chuẩn bị theo học chương trình đào tạo nghề hàn, có vẻ đang đi theo con đường của cha mình. Đặc biệt, cô vừa mua chiếc mô tô đầu tiên. Chandler mỉm cười: “Dù ở trong bất kỳ nền văn hóa nào, chúng ta đều có thể góp phần giúp xã hội tiến bộ hơn, cởi mở hơn, thấu hiểu và chấp nhận mọi người sống đúng với con người thật của họ.
 
Nguồn: “How to determine if you’re at risk for adult ADHD” được đăng trên trang NationalGeographic.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thử lướt một vòng trên các trang mạng xã hội, quý vị sẽ thấy các “tín đồ” của chế độ dinh dưỡng carnivore (chỉ ăn thịt) với hàng loạt hình ảnh: dĩa steak cao như núi, burger béo ngậy phủ đầy bơ, những miếng sườn nướng óng ánh chất chồng. Tuyệt nhiên không có lấy một miếng rau xanh, dù chỉ là một cọng ngò trang trí.
Một nhóm khoa học gia quốc tế vừa công bố trong Tạp chí Y khoa New England rằng họ đã phục hồi được một phần thị lực cho những người cao tuổi bị thoái hóa điểm vàng – căn bệnh mắt phổ biến và gần như không thể chữa trị trước đây. Thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (Age-related Macular Degeneration – AMD) là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa ở người trên 50 tuổi, ảnh hưởng đến khoảng 200 triệu người trên thế giới. Căn bệnh xảy ra khi các tế bào cảm quang ở trung tâm võng mạc bị tổn thương do lão hóa, khiến bệnh nhân mất dần khả năng nhìn rõ các chi tiết ở trung tâm tầm nhìn.
Theo một nghiên cứu mới, vắc-xin HPV không chỉ tạo ra hàng rào bảo vệ vững chắc cho người được chích, mà còn tạo ra một “tấm lá chắn vô hình” che chở cho cả những người chưa chủng ngừa, mở ra hy vọng về một tương lai không còn nỗi ám ảnh mang tên ung thư cổ tử cung. Nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Pediatrics, thực hiện tại thành phố Cincinnati (Hoa Kỳ) từ năm 2006 đến 2023. Có 2,335 thiếu nữ và phụ nữ trẻ (từ 13 đến 26 tuổi) tham gia nghiên cứu, trong đó nhiều người thuộc nhóm có cơ nguy nhiễm HPV cao vì có nhiều bạn tình hoặc từng mắc bệnh lây qua đường tình dục.
Trong nhiều năm, các khoa học gia đã cho rằng “mô não nuôi cấy trong phòng thí nghiệm” (brain organoids) còn quá đơn giản để có thể suy nghĩ hay cảm nhận, nên các quy định nghiên cứu về lĩnh vực này còn khá lỏng lẻo. Nhiều người thường liên tưởng đến hình ảnh những bộ não “siêu việt” như trong các phim khoa học viễn tưởng, nhưng thực tế đó chỉ mới là những khối mô đơn giản, chưa thể hoạt động như một bộ não hoàn chỉnh.
Vì sao có người giống như “cục nam châm” hút muỗi, bị chích liên tục, trong khi người ngồi ngay bên cạnh lại chẳng hề hấn gì? Có lẽ đây là câu hỏi khiến nhiều người băn khoăn mỗi độ hè về. Để tìm câu trả lời, một nhóm khoa học gia Hà Lan đã tìm đến lễ hội âm nhạc Lowlands. Tháng 8 năm 2023, nhà sinh học Sara Lynn Blanken và các cộng sự tại Trung tâm Y tế Đại học Radboud đã dựng một “phòng thí nghiệm dã chiến” trong các thùng hàng container ngay tại lễ hội. Hàng trăm người tham dự lễ hội hào hứng ghi danh: họ điền bảng thăm dò về giấc ngủ, chế độ dinh dưỡng, thói quen tắm rửa, nhóm máu và việc sử dụng chất kích thích. Các khoa học gia còn đo hơi cồn của họ bằng máy thở, lấy mẫu da, rồi cho từng người đưa cánh tay áp sát lồng nhựa chứa muỗi cái Anopheles stephensi. Lồng chỉ có các lỗ nhỏ cho phép muỗi “ngửi” mà không thể chích, và có gắn camera ghi lại mọi cử động và phản ứng của muỗi với từng người
Khi tiết thu mát lạnh trở lại, mùa cảm cúm cũng theo đó mà về – với những cơn hắt hơi, sốt nhẹ, và cơn ho quen thuộc. Mỗi năm, cúm (influenza) khiến hàng triệu người mắc bệnh. Phần lớn chỉ bị nhẹ hoặc trung bình, nhưng vẫn có nhiều trường hợp nặng, phải nhập viện, thậm chí tử vong. Điều quan trọng là: virus cúm thay đổi mỗi năm. Do đó, việc chích ngừa hàng năm vẫn là cách hữu hiệu nhất để tự bảo vệ.
Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Bệnh Tật Hoa Kỳ (CDC) vừa công bố thay đổi trong lịch tiêm chủng quốc gia: ngưng khuyến nghị tiêm vaccine COVID-19 cho người dưới 65 tuổi, và tách mũi tiêm kết hợp dành cho trẻ nhỏ chống bệnh thủy đậu, sởi, quai bị và rubella thành hai mũi riêng biệt. Quyết định này do quyền Giám đốc CDC Jim O’Neill công bố – một phụ tá thân cận của Bộ trưởng Y Tế Robert F. Kennedy Jr., người vốn có tiếng hoài nghi vaccine. O’Neill vừa thay thế Susan Monarez, người bị sa thải sau khi phản đối chủ trương làm suy yếu niềm tin vào vaccine. O’Neill không có chuyên môn y học, xuất thân từ ngành nhân văn, từng là nhà đầu tư và giới chức Bộ Y Tế thời Tổng thống George W. Bush.
Có người không thể bắt đầu ngày mới nếu chưa tắm. Có người lại chỉ chịu vào giường sau khi đã gột sạch bụi đời dưới vòi sen. Vậy ai đúng? Thật ra, cả hai bên đều có lý. Tắm sáng giúp đầu óc tỉnh táo, cơ thể mát mẻ, sẵn sàng đi làm. Tắm tối thì rửa sạch mồ hôi, bụi bặm, phấn hoa… để không đem hết vào ga gối. Nghe ra thì tắm tối có vẻ “vệ sinh” hơn. Nhưng khoa học lại chỉ ra vài chuyện bất tiện: dù có tắm sạch sẽ trước khi ngủ, bạn vẫn tiết ra cả đống mồ hôi và tế bào da trong lúc nằm. Tất cả biến giường thành tiệc buffet cho ve bụi. Nếu không thay ga gối thường xuyên, lợi ích của tắm tối coi như mất.
Thường sau khi chạy hoặc đi bộ lâu, cơ bắp chúng ta cần phải nghỉ ngơi. Não bộ cũng vậy – nó cũng cần nghỉ ngơi, không bị kích thích hay phải hoạt động trí óc. Nhưng bạn cứ thử “không nghĩ gì” xem, hẳn bạn sẽ nhận ra tư tưởng lại xuất hiện nhiều hơn. “Dưới góc độ tâm lý học, khái niệm nghỉ ngơi rất khó định nghĩa, tức là những gì não làm khi ta không làm gì cả”, Peter Fransson, giáo sư sinh lý học hệ thống thần kinh tại Đại học Karolinska, Thụy điển, người nghiên cứu trạng thái nghỉ của bộ não, cho biết.
Năm 2024, “brain rot” (thối não) được Oxford chọn làm Từ Của Năm, phản ánh nỗi lo rằng dùng điện thoại thông minh quá độ sẽ làm suy giảm trí tuệ. Thuật ngữ này, vốn xuất phát từ giới mạng xã hội, đang dần len vào các cuộc bàn luận khoa học, dù các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng nó chưa bao giờ là một khái niệm y học chính thức, theo bài viết của Amber X. Chen, học giả Mass Media Fellow của AAAS, đăng trên trang Smithsonian ngày 12/9/2025
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.