Hôm nay,  

Vắc-xin HPV Có Thể Tạo Hiệu Ứng Miễn Dịch Cộng Đồng, Chống Ung Thư Cổ Tử Cung

24/10/202500:00:00(Xem: 198)

HPV
Sau gần hai thập niên nghiên cứu, vắc-xin HPV đã chứng minh hiệu quả vượt trội, kể cả ở nhóm có cơ nguy cao nhưng chưa được chủng ngừa. Tỷ lệ nhiễm các chủng siêu vi trùng HPV nguy hiểm giảm rõ rệt, chứng minh hiệu quả của miễn dịch cộng đồng. (Nguồn: pixabay.com)

Theo một nghiên cứu mới, vắc-xin HPV không chỉ tạo ra hàng rào bảo vệ vững chắc cho người được chích, mà còn tạo ra một “tấm lá chắn vô hình” che chở cho cả những người chưa chủng ngừa, mở ra hy vọng về một tương lai không còn nỗi ám ảnh mang tên ung thư cổ tử cung.
 
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Pediatrics, thực hiện tại thành phố Cincinnati (Hoa Kỳ) từ năm 2006 đến 2023. Có 2,335 thiếu nữ và phụ nữ trẻ (từ 13 đến 26 tuổi) tham gia nghiên cứu, trong đó nhiều người thuộc nhóm có cơ nguy nhiễm HPV cao vì có nhiều bạn tình hoặc từng mắc bệnh lây qua đường tình dục.
 
Ở nhóm đã chích vắc-xin, tỷ lệ dương tính với các chủng HPV cơ nguy cao nhất (gây ra hơn 70% trường hợp ung thư cổ tử cung) đã giảm tới 98.4%. Ở nhóm chưa chủng ngừa, tỷ lệ nhiễm các chủng siêu vi trùng nguy hiểm là HPV 16 và HPV 18 giảm tới 71.6%, còn với các chủng cơ nguy cao khác cũng giảm tới 75.8%. Đây chính là bằng chứng rõ ràng cho “miễn dịch cộng đồng”: khi tỷ lệ chủng ngừa trong dân số đủ cao, siêu vi trùng sẽ khó tìm được vật chủ để lây lan, từ đó gián tiếp bảo vệ cả những người không được chích ngừa.
 
“Kẻ thù thầm lặng” và vũ khí phòng vệ
 
HPV là bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất thế giới (tính tất cả các chủng có cơ nguy thấp lẫn cao). Phần lớn các ca ung thư cổ tử cung bắt nguồn từ các chủng HPV cơ nguy cao, vốn có thể thúc đẩy các biến đổi tế bào khiến chúng trở thành ác tính. Trong số đó, có hai chủng cơ nguy cao thường gặp nhất liên quan nhiều nhất đến ung thư cổ tử cung. 
 
Gần như mọi người có quan hệ tình dục đều sẽ nhiễm siêu vi trùng HPV vào một thời điểm nào đó trong đời. Dù phần lớn các ca nhiễm không có triệu chứng và sẽ tự hết, một số chủng HPV cơ nguy cao có thể tồn tại dai dẳng, âm thầm làm biến đổi tế bào và gây ra ung thư.
 
Ung thư cổ tử cung là hậu quả nặng nề và phổ biến nhất, chiếm tới 80% trong số gần 700,000 ca ung thư do HPV gây ra trên toàn thế giới vào năm 2018 (theo tạp chí The Lancet Global Health). Ngoài ra, HPV còn là nguyên nhân của các bệnh ung thư khác ở cả nam lẫn nữ, chẳng hạn như ung thư hậu môn, đầu và cổ.
 
Kể từ khi ra mắt vào năm 2006, các loại vắc-xin HPV đã chứng tỏ hiệu quả vượt trội. Nghiên cứu tại Cincinnati đã đánh giá ba thế hệ vắc-xin, bao gồm:
-    Vắc-xin phòng ngừa 2 chủng (2-valent version): Ngừa HPV 16 và HPV 18.
-    Vắc-xin phòng ngừa 4 chủng (4-valent version): Ngừa hai chủng trên và thêm HPV 6 và HPV 11.
-    Vắc-xin phòng ngừa 9 chủng (9-valent version): Ngừa thêm 5 chủng cơ nguy cao khác.
 
Trong suốt thời gian thực hiện nghiên cứu, khi vắc-xin HPV bắt đầu được đưa vào sử dụng và số người tham gia nghiên cứu được chủng ngừa tăng dần từ 0% lên tới 82%, tỷ lệ bị nhiễm HPV đã giảm đáng kể. Ở nhóm đã chủng ngừa, các loại siêu vi trùng thuộc phạm vi bảo vệ của vắc-xin 2-valent version giảm tới 98.4%. Với các loại được bao phủ bởi vắc-xin 4-valent version và 9-valent version, tỷ lệ bị nhiễm bệnh cũng giảm lần lượt 94.2% và 75.7%.
 
Theo bác sĩ Jessica Kahn, giáo sư về nhi khoa tại Trường Y Albert Einstein (New York) và cũng là tác giả chính của nghiên cứu, trong các thử nghiệm lâm sàng, vắc-xin phòng ngừa 9 chủng bảo vệ hiệu quả ngang bằng với loại phòng ngừa 2 chủng và 4 chủng. Hiệu quả của loại vắc-xin ngừa 9 chủng thấp hơn một chút là vì vắc-xin được cấp phép trễ hơn, nên có ít người được chích ngừa hơn.
 
Thách thức lớn và một tương lai tươi sáng
 
Phát hiện về miễn dịch cộng đồng là một dấu hiệu lạc quan, nhưng tình hình thực tế trên thế giới vẫn còn đáng lo ngại. Tỷ lệ ung thư cổ tử cung ở các quốc gia thu nhập thấp vẫn còn rất cao. Theo dữ liệu năm 2024 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), toàn thế giới chỉ có 31% trẻ em gái và 8% trẻ em trai từ 9 đến 14 tuổi được chích ít nhất một liều vắc-xin HPV. Nếu có thể tăng tỷ lệ chủng ngừa trên toàn cầu, tác động tích cực sẽ vô cùng lớn, có thể thay đổi đáng kể cục diện cuộc chiến chống lại căn bệnh nguy hiểm này.
 
Kahn chia sẻ: “Nếu chúng ta tăng cường chủng ngừa vắc-xin HPV, vốn rất an toàn và hiệu quả, đảm bảo mọi người đều có thể đi khám tầm soát và được điều trị khi bị bệnh, thì nhân loại hoàn toàn có thể xóa sổ ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới.
 
Nguồn: “HPV vaccination drives cervical cancer rates down in both vaccinated and unvaccinated people” được đăng trên trang Livescience.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thử lướt một vòng trên các trang mạng xã hội, quý vị sẽ thấy các “tín đồ” của chế độ dinh dưỡng carnivore (chỉ ăn thịt) với hàng loạt hình ảnh: dĩa steak cao như núi, burger béo ngậy phủ đầy bơ, những miếng sườn nướng óng ánh chất chồng. Tuyệt nhiên không có lấy một miếng rau xanh, dù chỉ là một cọng ngò trang trí.
Một nhóm khoa học gia quốc tế vừa công bố trong Tạp chí Y khoa New England rằng họ đã phục hồi được một phần thị lực cho những người cao tuổi bị thoái hóa điểm vàng – căn bệnh mắt phổ biến và gần như không thể chữa trị trước đây. Thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (Age-related Macular Degeneration – AMD) là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa ở người trên 50 tuổi, ảnh hưởng đến khoảng 200 triệu người trên thế giới. Căn bệnh xảy ra khi các tế bào cảm quang ở trung tâm võng mạc bị tổn thương do lão hóa, khiến bệnh nhân mất dần khả năng nhìn rõ các chi tiết ở trung tâm tầm nhìn.
Từ nhỏ, Dustin Chandler đã luôn bị thầy cô phàn nàn vì không bao giờ làm bài tập về nhà. Trong mắt mọi người, Chandler là một cậu học trò “lười biếng.” Nhiều năm sau, khi mẹ anh, lúc này đang làm việc tại một phòng khám nhi khoa, nhìn thấy anh loay hoay sửa sang căn nhà đầu tiên, bà mới nhận ra có điều gì đó không ổn. “Con à,” bà nói, “có lẽ con cần đi khám bệnh xem có bị ADHD không.”Năm 25 tuổi, Chandler được chẩn bệnh là mắc chứng rối loạn tăng động/giảm chú ý (ADHD, một bệnh tiến triển do sự thiếu chú ý và đãng trí, kém hoặc không tăng hoạt động). Khi biết bệnh này có thể di truyền, vợ chồng Chandler bắt đầu theo dõi những dấu hiệu tương tự ở các con. Bé gái thứ hai khá giống cha: ít nói và hay mơ màng. Cô bé thích đọc sách một mình; khi được thầy cô dạy riêng, bé học rất tốt. Nhưng đến lúc vào tiểu học, hai vợ chồng bắt đầu thấy lo.
Trong nhiều năm, các khoa học gia đã cho rằng “mô não nuôi cấy trong phòng thí nghiệm” (brain organoids) còn quá đơn giản để có thể suy nghĩ hay cảm nhận, nên các quy định nghiên cứu về lĩnh vực này còn khá lỏng lẻo. Nhiều người thường liên tưởng đến hình ảnh những bộ não “siêu việt” như trong các phim khoa học viễn tưởng, nhưng thực tế đó chỉ mới là những khối mô đơn giản, chưa thể hoạt động như một bộ não hoàn chỉnh.
Vì sao có người giống như “cục nam châm” hút muỗi, bị chích liên tục, trong khi người ngồi ngay bên cạnh lại chẳng hề hấn gì? Có lẽ đây là câu hỏi khiến nhiều người băn khoăn mỗi độ hè về. Để tìm câu trả lời, một nhóm khoa học gia Hà Lan đã tìm đến lễ hội âm nhạc Lowlands. Tháng 8 năm 2023, nhà sinh học Sara Lynn Blanken và các cộng sự tại Trung tâm Y tế Đại học Radboud đã dựng một “phòng thí nghiệm dã chiến” trong các thùng hàng container ngay tại lễ hội. Hàng trăm người tham dự lễ hội hào hứng ghi danh: họ điền bảng thăm dò về giấc ngủ, chế độ dinh dưỡng, thói quen tắm rửa, nhóm máu và việc sử dụng chất kích thích. Các khoa học gia còn đo hơi cồn của họ bằng máy thở, lấy mẫu da, rồi cho từng người đưa cánh tay áp sát lồng nhựa chứa muỗi cái Anopheles stephensi. Lồng chỉ có các lỗ nhỏ cho phép muỗi “ngửi” mà không thể chích, và có gắn camera ghi lại mọi cử động và phản ứng của muỗi với từng người
Khi tiết thu mát lạnh trở lại, mùa cảm cúm cũng theo đó mà về – với những cơn hắt hơi, sốt nhẹ, và cơn ho quen thuộc. Mỗi năm, cúm (influenza) khiến hàng triệu người mắc bệnh. Phần lớn chỉ bị nhẹ hoặc trung bình, nhưng vẫn có nhiều trường hợp nặng, phải nhập viện, thậm chí tử vong. Điều quan trọng là: virus cúm thay đổi mỗi năm. Do đó, việc chích ngừa hàng năm vẫn là cách hữu hiệu nhất để tự bảo vệ.
Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Bệnh Tật Hoa Kỳ (CDC) vừa công bố thay đổi trong lịch tiêm chủng quốc gia: ngưng khuyến nghị tiêm vaccine COVID-19 cho người dưới 65 tuổi, và tách mũi tiêm kết hợp dành cho trẻ nhỏ chống bệnh thủy đậu, sởi, quai bị và rubella thành hai mũi riêng biệt. Quyết định này do quyền Giám đốc CDC Jim O’Neill công bố – một phụ tá thân cận của Bộ trưởng Y Tế Robert F. Kennedy Jr., người vốn có tiếng hoài nghi vaccine. O’Neill vừa thay thế Susan Monarez, người bị sa thải sau khi phản đối chủ trương làm suy yếu niềm tin vào vaccine. O’Neill không có chuyên môn y học, xuất thân từ ngành nhân văn, từng là nhà đầu tư và giới chức Bộ Y Tế thời Tổng thống George W. Bush.
Có người không thể bắt đầu ngày mới nếu chưa tắm. Có người lại chỉ chịu vào giường sau khi đã gột sạch bụi đời dưới vòi sen. Vậy ai đúng? Thật ra, cả hai bên đều có lý. Tắm sáng giúp đầu óc tỉnh táo, cơ thể mát mẻ, sẵn sàng đi làm. Tắm tối thì rửa sạch mồ hôi, bụi bặm, phấn hoa… để không đem hết vào ga gối. Nghe ra thì tắm tối có vẻ “vệ sinh” hơn. Nhưng khoa học lại chỉ ra vài chuyện bất tiện: dù có tắm sạch sẽ trước khi ngủ, bạn vẫn tiết ra cả đống mồ hôi và tế bào da trong lúc nằm. Tất cả biến giường thành tiệc buffet cho ve bụi. Nếu không thay ga gối thường xuyên, lợi ích của tắm tối coi như mất.
Thường sau khi chạy hoặc đi bộ lâu, cơ bắp chúng ta cần phải nghỉ ngơi. Não bộ cũng vậy – nó cũng cần nghỉ ngơi, không bị kích thích hay phải hoạt động trí óc. Nhưng bạn cứ thử “không nghĩ gì” xem, hẳn bạn sẽ nhận ra tư tưởng lại xuất hiện nhiều hơn. “Dưới góc độ tâm lý học, khái niệm nghỉ ngơi rất khó định nghĩa, tức là những gì não làm khi ta không làm gì cả”, Peter Fransson, giáo sư sinh lý học hệ thống thần kinh tại Đại học Karolinska, Thụy điển, người nghiên cứu trạng thái nghỉ của bộ não, cho biết.
Năm 2024, “brain rot” (thối não) được Oxford chọn làm Từ Của Năm, phản ánh nỗi lo rằng dùng điện thoại thông minh quá độ sẽ làm suy giảm trí tuệ. Thuật ngữ này, vốn xuất phát từ giới mạng xã hội, đang dần len vào các cuộc bàn luận khoa học, dù các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng nó chưa bao giờ là một khái niệm y học chính thức, theo bài viết của Amber X. Chen, học giả Mass Media Fellow của AAAS, đăng trên trang Smithsonian ngày 12/9/2025
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.