Hôm nay,  

Phòng Tuyến Khe Sanh Trận Chiến Đầu Năm 1968

01/01/200700:00:00(Xem: 15309)

Phòng Tuyến Khe Sanh Trận Chiến Đầu Năm 1968

LTS:Nhân dịp Tết Dương Lịch 2007, VB giới thiệu đến bạn đọc  một tài liệu chiến sử  về phòng tuyến Khe Sanh đầu năm 1968.  Tài liệu này được biên soạn dựa theo của các tài liệu phổ biến trên NY Times.com  và hồi ký của Đại tướng Westmoreland (nguyên Tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại chiến trường VN  1964-1968, đã từ trần vào tháng 7/2005, thọ 91 tuổi),  bản Việt ngữ của Duy Nguyên do nhà xuất bản Thế Giới phát hành.

* Lực lượng Hoa Kỳ tại căn cứ Khe Sanh đầu năm 1968

Căn cứ  Khe Sanh  nằm lọt giữa một thung lũng, các ngọn đồi bao bọc chung quanh, do đó đây không hẳn là một vị trí có thể quan sát bao quát hết các vị trí địch. Vào tháng 1/1968, lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tại Khe Sanh có 4 tiểu đoàn: 3 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 26 và Tiểu đoàn 1/13. Tại căn cứ Pháo binh được trang bị 18 khẩu 105 ly, và sáu khẩu đại bác 155 ly. Các căn cứ Hoa Kỳ lân cận có thêm 18 khẩu pháo 175 ly. Vũ khí hạng bao gồm 6 chiến xa M48 được trang bị đại bác và 14 thiết vận xa, cộng thêm 14 chiến xa Ontos với 6 đại bác không giật 106 ly cho mỗi chiếc, và 4 chiến xa Dusters rrang bị đại bác 40 ly hoặc đại liên 50.

Cho đến giữa tháng Giêng, Khe Sanh đã được tăng cường kiên cố: Doanh trại đã sẵn sàng giao chiến với nhiều hàng rào công sự bằng bao cát hoặc thép gai mìn dày dặc. Một hệ thống nhiều đường hào bảo đảm cho việc giao thông dưới lửa đạn và trường hợp rút lui khi thất bại. Cộng quân buộc phải tránh sự quan sát theo dõi liên tục từ các ngọn đồi lân cận bằng cách đặt các vị trí tiền đồn kiên cố tại các đỉnh đồi mà địch chiếm đóng.

* Đại tướng Westmoreland và kế hoạch  bảo vệ căn cứ  Khe Sanh vào đầu năm 1968

Từ đầu năm 1968, các tin tức tình báo ghi nhận các cuộc tập trung và di chuyển quân của Cộng sản Bắc Việt ( CSBV) gần khu vực căn cứ Khe Sanh. Theo nguồn tin tổng hợp, sư đoàn 325 CSBV đang di chuyển đến phía Bắc của căn cứ, trong khi đó về phía Đông là các trung đoàn của sư đoàn 304 CSBV. Tổng quân số của 2 sư đoàn CSBV này được ước định gần 20 ngàn Cộng quân. Cách đó không xa, hai sư đoàn 324 và 320 CSBV đã khai triển lực lượng, sẵn sàng bao vây Khe Sanh.

Trước những diễn biến về tình hình quanh khu vực Khe Sanh, Đại tướng Westmoreland, Tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam,  đã hội ý với Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH để bàn phương thức đối phó: hoặc là bỏ Khe Sanh cho CSBV, hoặc tiếp tục giữ căn cứ này để khống chế và cản trở đường tiếp liệu của Cộng quân bằng cách đánh bại cuộc tấn công của đối phương mà liên quân Việt- Mỹ đã biết trước. Sau khi cân nhắc về cuộc diện trận chiến,  Đại tướng Westmoreland và Đại tướng Viên đi đến quyết định giữ căn cứ Khe Sanh bằng mọi giá.

Để thực hiện quyết định này, Đại tướng Westmoreland đã trao quyền cho Trung tướng Cushman, Tư lịnh Lực lượng 3 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ,đang hoạt động tại Vùng 1 chiến thuật, trực tiếp tổ chức cuộc phòng thủ để bảo vệ Khe Sanh. Tuy nhiên, Tướng Westmoreland cũng khuyến cáo Trung tướng Cushman không nên tập trung quá nhiều đơn vị tại căn cứ Khe Sanh, điều đó sẽ gây trở ngại cho việc tiếp tế. Sau khi nghiên cứu địa hình và những dự báo về chiến sự, Tướng Cushman tái phối trí lực lượng trú phòng với các thành phần: 3 tiểu đoàn của Trung đoàn 26 Thủy quân Lục chiến (TQLC), 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 9 TQLC, 1 tiểu đoàn Pháo binh TQLC với 18 khẩu pháo binh 105 ly, tăng cường 6 khẩu 155 ly, 1 chi đội thiết xa với 5 thiết giáp trang bị đại bác cùng hai trung đội súng 106 mm không giật chạy bằng bánh xích yểm trợ, gần Khe Sanh là doanh trại Làng Vei của một đơn vị Biệt kích quân Biên phòng thuộc Lực lượng Đặc biệt VNCH.

Trọng điểm của kế hoạch bảo vệ Khe Sanh là hỏa lực yểm trợ từ các phi tuần chiến thuật và chiến lược. Phụ tá Tư lịnh Lực lượng Mỹ tại Việt Nam đặc trách điều hợp Không quân là Trung tướng Momyer được Đại tướng Westmoreland ủy nhiệm soạn thảo kế hoạch SLAM (phối hợp sự liên hoàn giữa hoạt động thám báo và hỏa lực của không quân). Kế hoạch này được tiến hành theo hai giai đoạn để tạo sự hợp đồng giữa hỏa lực của các đơn vị yểm trợ qua phi pháo và hỏa pháo cùng với hỏa lực của các đơn vị trú phòng. Tướng Westmoreland đặt cho kế hoạch này một mật danh là kế hoạch Niagara, ông muốn ví hình ảnh phi pháo đổ xuống như giòng thác.

*Các giai đoạn của kế hoạch bảo vệ Khe Sanh.

Trong giai đoạn đầu của kế hoạch Niagara, các hoạt động tập trung vào việc thu thập tin tình báo, tận dụng mọi phương tiện có sẵn để phát giác kịp thời các vị trí của Cộng quân bằng các cuộc tuần tiễu, phi cơ thám thính, kiểm thính sóng vô tuyến và đặt các bộ phận thăm dò các cuộc chuyển quân bằng hệ thống chùm điện tử.

Giai đoạn 2 của kế hoạch phối hợp hỏa lực giữa pháo binh, oanh tạc cơ bay từ hạm đội của hải quân, của không quân và hỏa lực của thủy quân lục chiến, bắn liên tục trong 24 giờ liền vào các vị trí nghi ngờ có Cộng quân điện tử. Trong giai đoạn này, hỏa lực của B 52 được xem là ưu tiên

hàng đầu trong các cuộc hỏa kích này.

Về hệ thống chiến hào và phòng thủ trong căn cứ, ngay từ đầu tháng 1/1968, các đơn vị trú phòng đã xây dựng các công sự bằng bao cát và các hàng rào bằng thép gai gài mìn dày dặc, ngoài ra còn có nhiều đường hào bảo đảm cho việc di chuyển của binh sĩ trong khi giao tranh và trong trường hợp rút lui.

* Ngày N của trận chiến Khe Sanh:

Chiến sự đã xảy ra vào ngày 21/1/1968. Tờ mờ sáng ngày này, Cộng quân khai hỏa bằng hàng loạt pháo kích vào các vị trí trong căn cứ, tiền đồn tại đồi 861 là một trong những mục tiêu đầu tiên. Tại vị trí này, ngay sau một loạt pháo kích, Cộng quân tung các phân đội đặc công tấn công theo kiểu thí mạng để chọc thủng phòng tuyến Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ nhằm dọn đường cho các các đơn vị bộ binh Cộng quân tràn vào phòng tuyến. Nhưng chỉ trong giờ đầu tiên, các đợt xung phong của Cộng quân đã bị chận đứng và bị tiêu diệt bởi sự chống trả quyết liệt của quân trú phòng và hỏa lực của TQLC từ đồi 881 bắn sang.

Khoảng nửa giờ sau khi trận chiến xảy ra, Cộng quân tập trung hỏa lực pháo binh bắn vào các vị trí ngay trong căn cứ chính. Đạn pháo và hỏa tiễn của Cộng quân đã dội vào căn cứ như mưa trước khi trời sáng. Trong cuộc tấn công bằng pháo của Cộng quân, kho đạn lớn nhất trong căn cứ bị nổ và nhiều trực thăng đậu ở khu vực sân bay bị phá hủy.

Đại tá Lownds, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 26 Thủy quân lục chiến (TQLC), báo cáo ngay với tướng Cushman và điều động đơn vị Pháo binh phản pháo. Không quân đã can thiệp kịp thời với các đợt oanh tạc dữ dội quanh các ngọn đồi để chận đứng các đợt tấn công của Cộng quân. Vấn đề đặt ra cho Đại tá Lownds là phải bổ sung đạn dược, để thay thế ngay 1,500 tấn đạn dược đã bị nổ tung trong các đợt pháo kích đầu tiên của Cộng quân. Phi đạo cũng bị hư hại nặng đến nỗi các phi cơ C 130 không đáp xuống được. Trong tình hình này, mọi sự tiếp tế và tải thương chỉ dựa vào phi cơ C 123, loại máy bay này mới có thể vượt qua được phi đạo.

Cùng một lúc với đợt tấn công vào căn cứ Khe Sanh, Cộng quân cũng đã pháo kích và tấn công vào phòng tuyến gần khu vực Làng Vei. Hàng trăm dân làng ở đây-hầu hết là sắc tộc thiểu số, đã chạy vào căn cứ Khe Sanh xin tị nạn. Những người này đã cùng với cư dân ở một ngôi làng gần Khe Sanh tạo thành một làn sóng chạy giặc.

Để giải quyết tình trạng an sinh cho những người tị nạn, Đại tá Lownds đã điều động một số đại đội TQLC hành quân mở một đoạn đường trên quốc lộ 9 nối liền ngôi làng nhỏ đến căn cứ. Lực lượng mở đường đã phải giao tranh quyết liệt để khai thông quốc lộ, nhờ vậy số dân chạy giặc vào đến căn cứ an toàn và sau đó đã được di tản về Đà Nẵng trên những phi cơ C 123.

Để có đạn dược cấp cho các đơn vị trú phòng sau khi kho đạn dược bị nổ, sáng ngày 22 tháng 1/1968,  Đại tá Lownds đã xin bộ tư lịnh Lực lượng 3 TQLC Hoa Kỳ huy động tất cả các phi cơ C 123 để chở 130 tấn đạn dược trước khi trời tối. Cũng trong ngày này, Tiểu đoàn 1/9 TQLC đã được điều động đến đóng quân tại phía Tây căn cư Khe Sanh.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.