Hôm nay,  

Đối Thoại Với CSVN: Người Việt Tị Nạn Đứng Ơ Đâu?

8/13/200700:00:00(View: 14463)

Chính phủ Hoa kỳ, từ thời TT Clinton đến nay, đều chủ trương đối thoại với Việt cộng, không chỉ trong lãnh vực kinh tế mà cả trong lãnh vực Dân chủ, Nhân Quyền tại Việt Nam. Trãi qua các nhiệm kỳ Đại sứ, từ ĐS Peterson, ĐS Burghardt, đền ĐS Marine, và nay là vị ĐS thứ tư Michalak, trong những lần gặp gỡ hiếm hoi với Cộng động người Mỹ gốc Việt, các vị đều không quên "khuyên nhủ" người Mỹ gốc Việt nên thôi chống đối nhà cầm quyền Hà nội, nói theo kiểu Việt cộng là nên "quên đi quá khứ, xóa bỏ hận thù, tiến tới tương lai...". Gần đây nhất, ngày 10-8-2007, trả lời cuộc phỏng vấn của phóng viên đài BBC, Tân Đại sứ Michael Michalak cũng có gợi ý."...tôi tin rằng cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Hoa kỳ cũng như ở các nước khác có một vai trò to lớn trong quá trình thúc đẩy hơn nữa tốc độ phát triển kinh tế và giáo dục."
Mặt khác, theo dõi những diễn biến chính trị tại Washington, DC, trước và sau chuyến đi của Nguyễn Minh Triết (từ 18 đến 23-7-2007) người ta không thể không chú ý sự kiện TT George W. Bush, PTT Dick Cheyny, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tiếp kiến Đại diện một số tổ chức, đảng phái đấu tranh đòi thực hiện Tự do, Dân chủ, Nhân quyền cho Việt Nam, như Phong Trào QT Yểm trợ Cao Trào Nhân Bản, Đảng Dân Chủ Nhân Dân, Đảng Việt Tân..., có trụ sở tại Hoa kỳ, và Ủy Ban về Quyền Làm Người Việt Nam, trụ sở tại Paris, Pháp. Dư luận đồn đoán, dường như Chính phủ Mỹ đang làm một cuộc "tuyển lựa tài năng" để chọn một số người có nhiều ảnh hưởng trong các Cộng đồng người Việt tị nạn CS, ở Mỹ cũng như ở các nước khác, nhằm sẵn sàng đại diện cho Khối người Việt tị nạn trong một cuộc đối thoại nào đó với nhà cầm quyền CS, có thể xảy ra trong tương lai không xa, theo sự "đạo diễn" của Mỹ và yêu cầu của CSVN.

Đối thoại dĩ nhiên là một biện pháp tốt, vì nó giúp giải quyết những bất đồng giữa hai phía, hay nhiều phía, một cách hòa bình, đưa tới những thỏa hiệp có lợi cho tất cả các bên. Thỏa hiệp được với CP Mỹ, trước tiên là Việt cộng có lợi, được cấp quy chế Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn, xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ với thuế suất nhiều lần thấp hơn trước kia, kim ngạch xuất khẩu tăng ào ào...Phía Mỹ cũng có lợi, doanh gia Mỹ thoải mái làm ăn tại VN, khai thác lao động rẻ mạt để làm giàu. VN lại có luật cấm đình công, khỏi lo phá sản..., đó là chưa kể tới những lợi ích lớn lao hơn trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu khu vực Châu Á, Thái Bình Dương của cường quốc Hoa kỳ.

Nói là nói vậy, nhưng dù sao cái mối giao thương Mỹ-Việt khăn khít ấy cũng còn có chỗ "lấn cấn", lấn cấn ở cái "khâu" người Mỹ gốc Việt, với lực lượng trên một triệu "nhân khẩu" ở Mỹ, và khoản 3 triệu trên toàn thế giới. Thử hỏi, hàng hóa nhập từ VN, nhất là lương thực, thực phẩm, là nhằm để bán cho ai" Mỹ trắng, Mỹ đen, Mỹ đỏ...đâu có ai biết ăn mắm tôm, cà pháo, mắm ruốc Bà Giáo Thảo. Còn tôm cá, hải sản từ Việt nam, theo xét nghiệm của cơ quan FDA, thì chứa đầy chất kháng sinh gây ung thư, ai mà dám rớ. Rốt cuộc, chỉ có người Mỹ gốc Việt, người Việt ở hải ngoại nói chung, mới là nguồn tiêu thụ chính. Dã thử một ngày nào đó, người Việt hải ngoại bổng dưng...nghỉ chơi với hàng hóa nhập từ VN, chuyện gì sẽ xảy ra" Xa hơn chút nữa, nếu một triệu rưỡi "con bò sữa" gốc Việt bổng dưng trở chứng, cứ thích ngao du sơn thủy tận bên Đông Kinh, Hồng Kông, Xanh-ga-po, Băng cốc, không chịu "ghé bến Sai-gòn", một hai đòi..."anh xa Hà-nội", thì sao" Chuyện đó bây giờ chưa xảy ra, nhưng ai dám bảo đảm nó sẽ không xảy một ngày...xấu trời nào đó, khi người Việt hải ngoại chịu hết thấu cái trò ma mãnh, chơi cha, chơi xấu của mấy anh CỘNG SẢN GỐC VIỆT" Cho nên, hơn ai hết, chính nhà cầm quyền Hà nội mới cần đối thoại với cái mà họ ởm ờ gọi là...khúc ruột xa ngàn dặm.

Người Mỹ gốc Việt không sợ đối thoại, kể cả đối thoại với CSVN. Vấn đề là đối thoại như thế nào" Đứng ở đâu để đối thoại cho được bình đẳng, công bằng" Vả lại, đối thoại là nhằm đưa tới một thỏa hiệp hai bên cùng có lợi. Vậy đối thoại với CS trong tình thế hiện nay, người Việt hải ngoại có lợi gì" Đó là những câu hỏi cần có lời giải đáp.

Đã gọi là đối thoại thì cả hai phía, hay nhiều phía, phải có chỗ đứng ngang hàng với nhau, từ đó mới có thể đạt tới một thỏa hiệp công bằng mà cả hai bên, hay nhiều bên, đều chấp nhận được. Không thể có đối thoại bình đẳng giữa kẻ thắng với người thua; giữa kẻ trên tay lăm le khẩu súng với người tay không tấc sắt; giữa tên cướp với nạn nhân của nó. Đối thoại không bình đẳng sẽ không bao giờ có thỏa hiệp công bằng. Đó không phải là đối thoại chân chính. Đó chỉ là một trò lừa đảo, dối trá. Người Việt quốc gia, không CS, đã có nhiều kinh nghiệm trong đối thoại với người cộng sản. Xin kể sơ một vài trường hợp.

Năm 1945, sau khi cướp chính quyền, Đảng Lao Động VN (giả danh của Đảng CS), thực lực còn yếu kém, tự biết chưa đủ sức giữ chính quyền, buộc phải đối thoại với các đảng phái Quốc gia như Việt Cách (được hậu thuẩn của quân đội Quốc Dân Đảng Trung hoa), Đại Việt Quốc Dân Đảng (có lực lượng vũ trang)...Cuộc đối thoại đó, tương đối bình đẳng, ít ra là nhìn bề ngoài, đã đưa tới việc thành lập Chính phủ Lâm Thời đa đảng, trong đó Hồ Chí Minh (Cộng sản) làm Chủ Tịch, cụ Nguyễn Hải Thần (Việt cách) làm phó, cụ Huỳnh Thúc Kháng giữ Bộ Nội Vụ, Nguyễn Tường Tam (Đại Việt) giữ Bộ Ngoại giao, v.v...Chuyện gì xảy ra cho các đảng phái Quốc gia sau khi HCM ký Hiệp định sơ bộ với Pháp, ngày 6-3-1946, cho phép quân Pháp đỗ bộ lên Miền Bắc,  sau khi quân Trung hoa QDDD rút khỏi VN, mọi người đều đã rõ, thiết tưởng không cần nhắc lại ở đây.

Tháng tư 1975, tin tưởng có thể đối thoại với...người anh em phía bên kia, nhằm thành lập một Chính phủ 3 thành phần, bao gồm VNCH, MTGPMN và những người trong "lực lượng thứ 3", ông Dương Văn Minh đã nài nỉ xin "ông thầy" Trần Văn Hương (Tổng Thống kế nhiệm sau khi TT Thiệu từ chức) nhường cho chiếc ghế Tổng Thống. TT Trần Văn Hương, vị TT hợp hiến cuối cùng của VNCH, trong tình thế khó xử bèn đẩy sang Quốc hội, và QH đã tấn phong Dương Văn Minh ngay sau đó, một cách bất hợp hiến. Ngồi tại Dinh Độc Lập rồi, Big Minh, qua trung gian của Thượng tọa Thích Trí Quang, chỉ làm mỗi việc là...chờ, chờ "phía bên kia" đến để nói chuyện...hòa giải, hòa hợp. Trong khi đó, quân CS ngày càng áp sát Saigon. Và, chuyện gì phải đến đã đến chỉ mấy mươi tiếng đồng hồ sau đó. Ông Minh không hiểu rằng Việt cộng không bao giờ đối thoại khi đang ở thế mạnh.

Sau 30-4-1975, chỉ mấy tháng sau khi chiếm Saigon, tại Dinh Độc Lập, cũng có một cuộc đối thoại khác, rất ...hề, gọi là cuộc "Hiệp thương hai miền Nam-Bắc thống nhất đất nước". Cầm đầu phái đoàn Bắc Việt là Trường Chinh, Tổng Bí Thư Đảng Lao động VN (bấy giờ chưa đổi tên thành Đảng CSVN). Cầm đầu phái đoàn Miền Nam là Phạm Hùng (Bí thư Xứ Ủy Nam Bộ Đảng Lao động VN). Không ai nhắc tới Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Mặt Trận GPMN, hay Huỳnh Tấn Phát, Thủ Tướng Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam, với lá cờ nửa xanh nửa đỏ và chiêu bài Độc lập, Hòa bình, Trung lập...Thực tình mà nói, đây chỉ đơn thuần là một cuộc "đối thoại" giữa hai cha con nhà họ Cộng. Có thể tưởng tượng, trong vỡ tuồng hiệp thương đó, Cộng cha bảo Cộng con:"Mày hết việc rồi. Biến!". Là xong. Thằng con chết mất xác, không để lại dấu tích gì cả. Hạ màn!

TT Bush, Chính phủ Mỹ, các nhà kinh doanh Mỹ, dĩ nhiên muốn người Mỹ gốc Việt thôi chống CSVN. Dàn xếp được chuyện đó, giao thương Mỹ-Việt sẽ hết lấn cấn, Chính phủ cũng đỡ...nhức đầu, còn các nhà kinh doanh thì thoải mái làm ăn ở VN. Như trên đã nói, Đảng CSVN còn mơ ước chuyện đó hơn ai hết, bởi vì như vậy họ mới "nắm" được các cộng đồng người Việt hải ngoại. Mà nắm được cái...khúc ruột ngàn dặm rồi thì tha hồ làm giàu, tha hồ tiếp tục..."muôn năm trường trị". Còn người Việt tị nạn hải ngoại" Họ được gì" Được miễn visa khi về nước" Được mua nhà ở VN" Được mang tiền bạc, chất xám về đầu tư" Nói thật, chuyện miễn visa, mua nhà thì không ai ham, còn đầu tư thì...không dám. Cái gương Trịnh Vĩnh Bình, và vô số người khác nữa, vẫn còn nóng hổi. Nếu nói "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai" thì tương lai đó là tương lai nào" Hơn 80 triệu dân trong nước còn chưa thấy chút ánh sáng tương lai nào, chưa biết sẽ còn bị bịt mắt, bịt miệng dẫn tới đâu trên con đường mờ mịt tiến lên CNXH, nói chi người Việt hải ngoại.  Không có tương lai nào cả, một khi cái Điều 4 trịch thượng còn nằm chình ình trong cái gọi là Hiến pháp của nước CHXHCNVN, cho phép Đảng CS áp đặt nền thống trị độc tài tàn bạo vĩnh viễn trên đất nước VN.
Là công dân Mỹ, người Mỹ gốc Việt rất thông cảm, rất biết ơn Tổng Thống, biết ơn Chính phủ, biết ơn các vị Đại sứ, về sự quan tâm của các vị đến vấn đề VN, nơi mà đồng bào ruột thịt của chúng tôi đang phải sống lầm than dưới ách thống trị bạo tàn của một trong vài con khủng long còn sót lại trên hành tinh nầy. Nhưng trong tình thế hiện nay, chúng tôi không có nhu cầu, cũng chưa thấy lý do chính đáng để đối thoại với đảng CSVN, cho tới khi nào cái điều 4 ác ôn ấy không còn nữa. Chừng đó may ra...

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.