Hôm nay,  

Afghanistan: Phảng Phất Mùi Nước Mắm?

20/10/200900:00:00(Xem: 10049)

Afghanistan: Phảng Phất Mùi Nước Mắm"

Vũ Linh

...hơn một nửa dân Mỹ đã muốn bỏ Afghanistan...       

Cách đây gần tám năm, khoảng một tháng sau khi bị khủng bố Hồi giáo quá khích tấn công ngày 11 tháng Chín năm 2001, TT Bush tuyên chiến với Al Qaeda và Taliban. Ông tung quân vào Afghanistan để không cho khủng bố dùng xứ này làm nơi huấn luyện khủng bố toàn cầu. Quân Mỹ chiến thắng mau lẹ và dễ dàng trước sự ngạc nhiên của cả thế giới. Lúc đó thiên hạ còn nhớ Afghanistan đã là nghĩa địa chôn vùi Hồng Quân Liên Xô khiến Liên Xô cuối cùng phải cuốn gói về nước. Afghanistan được gọi là một “Việt Nam của Liên Xô”, để so sánh thất bại của Liên Xô tại đây với thất bại của Mỹ tại Việt Nam.
Giờ đây, tám năm sau, đọc báo, ta lại thấy có câu hỏi “Afghanistan: Việt Nam thứ hai của Mỹ"” Dĩ nhiên, so sánh hai cuộc chiến Afghanistan và Việt Nam có nhiều điều không ổn và giản dị hóa vấn đề nếu không muốn nói là gượng ép vì hai cuộc chiến khác nhau khá xa.
Tại Việt Nam, điều ta chứng kiến là một cuộc chiến “ủy nhiệm” giữa hai khối ý thức hệ cộng sản và tự do, qua hai “nước”: “nước” Việt Nam Cộng Hòa với sự yểm trợ của Mỹ, chống đỡ lại cuộc “xâm lăng” của “nước” Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được sự tiếp tay của Liên Xô và Trung Cộng.
Có nhiều người không chấp nhận lý luận “nước” Bắc Việt xâm lăng “nước” Nam Việt, nghe có vẻ chói tai. Trên thực tế, đã có một hiệp định quốc tế chấm dứt chiến tranh Đông Dương, phân chia Việt Nam ra làm hai vùng riêng biệt. Hiệp định đó quy định sẽ có bầu cử tự do trên cả hai miền để thống nhất lại đất nước, nhưng cho đến khi nào chưa có bầu cử tự do và chưa có thống nhất, thì thực tế vẫn là có hai khu vực riêng biệt, với hai chính phủ có chủ quyền riêng biệt, hai quân đội và hai lá cờ, hai thể chế chính trị xã hội khác biệt. Trên thực tế là hai “nước” riêng biệt, mỗi “nước” đều được nhiều nước trên thế giới công nhận. Việt Nam Cộng Hoà khi đó còn là thành viên của các tổ chức quốc tế. Ngay Khurschev cũng đã có ý đề nghị Liên Hiệp Quốc chấp nhận cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam gia nhập với tư cách hai nước riêng. Và ai cũng hiểu mọi cuộc huy động quân lực băng qua vĩ tuyến 17 - công khai hay lén lút - đều mang ý nghĩa xâm lăng. Dĩ nhiên đó là quan điểm của phe quốc gia chúng ta.
Phe cộng sản thì nhất quyết coi vĩ tuyến 17 chỉ là lằn ranh hưu chiến. Quân võ trang Bắc Việt băng qua lằn ranh vào miền Nam không phải là quân xâm lăng mà chỉ là người Việt “yêu nước đi giải phóng” một vùng đất Việt đang bị ngoại bang tạm chiếm. Hiệp định Geneva hay Paris hay bất cứ hiệp định nào khác mà cộng sản ký cũng chỉ nằm trong chiến thuật chính trị thôi, không có giá trị gì hơn.
Dù sao thì ta cũng thấy cuộc chiến tại Afghanistan không là cuộc chiến ủy nhiệm có hai nước dính dáng. Mà là cuộc chiến tảo thanh khủng bố đã lấy xứ này làm căn cứ địa để phát triển khủng bố toàn cầu.
Về tầm vóc, cuộc chiến tại Việt Nam đã huy động tới nửa triệu quân Mỹ, hơn một triệu quân Miền Nam, cả triệu quân miền Bắc. Trong khi tại Afghanistan, quân Mỹ chỉ có 62.000 người, cộng với 35.000 quân đồng minh, quân Afghanistan còn đang trong tình trạng được thành lập và chưa được tới một trăm ngàn kể cả cảnh sát, quân Taliban và Al Qaeda chừng hai chục ngàn. Hơn 55.000 quân nhân Mỹ đã thiệt mạng tại Việt Nam trong khi chỉ có chưa tới một phần mười con số đó tại Afghanistan.
Đó là những khác biệt quan trọng giữa hai cuộc chiến Afghanistan và Việt Nam. Nhưng cũng khó có thể phủ nhận hai cuộc chiến cũng có nhiều điểm giống nhau, rất quan trọng.
Lập luận chính cho sự so sánh hai cuộc chiến Việt Nam và Afghanistan là cái thế bí, dường như không ai thấy lối ra. Cũng như Mỹ càng ngày càng leo thang và sa lầy. Nhu cầu tăng viện ngày mỗi lớn. Hôm nay bốn chục ngàn quân, ngày mai sáu chục ngàn quân, ngày mốt bao nhiêu nữa" Mục tiêu tối hậu là gì"
Ở Việt Nam ngày xưa, Mỹ tham chiến để giúp Nam Việt Nam chống lại xâm lăng từ miền Bắc, nhưng lại không dám đánh thẳng vào miền Bắc, để CSBV gần như tự do đổ quân vào không ngưng nghỉ. Như vậy mục tiêu tối hậu của Mỹ là gì" Là đánh cho tới khi Bắc Việt hết người gửi vào Nam" Một trăm năm như Hồ Chí Minh đã nói" Mỹ có thả bom miền Bắc thật. Nhưng để được gì" Phá nhà máy, cầu cống, đường lộ" Nhưng mấy chú du kích cộng sản từ trong rừng ra có khi nào cần nhà máy hay xa lộ gì đâu" Họ chỉ cần súng đạn thì đã có Nga Tầu tiếp viện. Nói cách, Mỹ đánh mà không thấy chút ánh sáng nào cuối đường hầm.
Ở Afghanistan ngày nay, mục tiêu cũng chẳng rõ là gì. Mấy ông khủng bố đâu phải chỉ có ở trong hang núi Afghanistan" Ngay trên nước Mỹ này cũng có mà. Chúng cũng có mặt ở Luân Đôn, Madrid, Bali, New Delhi, … Sao không mang Thủy Quân Lục Chiến vào Luân Đôn" Hay là Mỹ muốn xây dựng dân chủ lâu dài ở Afghanistan, và như vậy sẽ phải ở lại bao lâu nữa" Một trăm năm nữa"
Có lập luận khác nói Afghanistan giống Việt Nam vì TT Obama, cũng như TT Johnson, là người có một chương trình cải cách xã hội vĩ đại, nhưng lại thừa hưởng một gia tài là cuộc chiến tranh quá tốn kém, lấy hết tiền của các chương trình cải cách xã hội. Chương trình “Đại Xã” (Great Society) của TT Johnson phần lớn bị chìm xuồng, không đi đến đâu hết vì chiến tranh Việt Nam. Các chương trình cải cách vĩ đại của TT Obama như cải tổ y tế, năng lượng, môi sinh cũng đang bị cuộc chiến tại Afghanistan đe dọa.
Một điểm giống nữa là mâu thuẫn giữa lãnh đạo chính trị ở Hoa Thịnh Đốn và các tư lệnh chiến trường.


Chúng ta đều biết những than phiền của tướng Westmoreland trong hồi ký của ông: ông là võ sĩ bị thượng đài với một tay bị trói chặt sau lưng. TT Obama cách đây hai tháng, khi cuộc chiến gặp khó khăn, bất ngờ cách chức tướng McKiernan, và bổ nhiệm tướng McChrystal làm tư lệnh chiến trường Afghanistan. Vị tư lệnh mới mau mắn duyệt xét tình hình và tặng cho TT Obama một món quà: tổng thống phải lấy quyết định, tiếp tục lằng nhằng nửa đánh nửa muốn rút dù thì chắc chắn sẽ thảm bại, muốn thắng thì phải tăng thêm từ bốn chục đến sáu chục ngàn quân. Rút bài học của tướng Westmoreland tại Việt Nam, tướng McChrystal không chịu im lặng để các chính trị gia ở Hoa Thịnh Đốn trói tay rồi đợi sau khi về hưu viết hồi ký than vãn, mà trái lại làm rùm beng. Phúc trình của ông bị xì ra cho báo chí đăng, rồi ông họp báo công khai vận động tăng quân, đặt TT Obama và quốc hội vào thế phải lấy quyết định và phải chịu trách nhiệm nếu từ chối tăng quân đưa đến thất bại.
Phe Cộng Hòa đòi tướng McChrystal ra điều trần trước quốc hội, nhưng phe đa số Dân Chủ mau mắn gạt bỏ ý kiến này. Dù sao thì quốc hội Mỹ cũng khôn hơn mấy ông đỉnh cao trí tuệ loài người, không muốn xẩy ra tình trạng nhân viên FBI đứng sau lưng bịt miệng tướng McChrystal.
Một điểm giống nhau nữa là cuộc chiến đã tạo ra mâu thuẫn lớn ngay trong khối lãnh đạo chính trị cao nhất.
Dưới thời TT Johnson, nhân vật có uy tín nhất trong chính quyền là bộ trưởng Tư Pháp Robert Kennedy, em cố TT Kennedy. Ông chống chiến tranh Việt Nam ra mặt, và ra tranh cử chống lại TT Johnson. Ông bị ám sát ngay trong ngày thắng cử cuộc bầu sơ bộ tại California, tiểu bang lớn nhất Mỹ, một chiến thắng bảo đảm ông sẽ trở thành ứng viên đảng Dân Chủ và có nhiều hy vọng trở thành tổng thống luôn. Ở cấp thấp hơn và trong quốc hội, đảng Dân Chủ phân hóa nặng giữa hai phe bồ câu và diều hâu.
Ngày nay, cuộc tranh cãi trong chính quyền Obama cũng không phải nhỏ. Một bên, tương đối “diều hâu” là bà Ngoại trưởng Hillary Clinton, bộ trưởng Quốc Phòng Robert Gates, phụ tá đặc nhiệm Richard Holbrooke, và các tướng lãnh. Phe “bồ câu” do Phó TT Biden đứng đầu, có thêm quân sư David Axelrod, tướng Jim Jones Chủ Tịch Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, và Chánh Văn Phòng Rahm Emanuel.
Trước cuộc tranh cãi nội bộ cao cấp đó, cả TT Johnson lẫn TT Obama đều có vẻ lừng khừng, không có thái độ dứt khoát, kiểu như trong thâm tâm thì muốn rút, nhưng vì nhiều lý do chính trị, lại không thể rút được. Mà đánh mạnh cũng không được vì còn phải nhìn vào khối đối lập, khối quần chúng Mỹ, và nhất là các thế lực trên thế giới như khối cộng sản Nga Tầu hồi xưa và khối Hồi giáo ngày nay. Vì mâu thuẫn ấy mà TT Johnson đã phải áp dụng chiến lược leo thang từ từ, mỗi ngày leo một chút mà không ai thấy được leo đến mức nào thì không còn leo được nữa.
Đối với TT Obama thì cho đến nay, không ai biết rõ ông sẽ làm gì. Có lẽ ngay cả chính ông cũng chẳng biết mình muốn gì, làm được gì. Có điều rõ ràng là trong suốt thời gian tranh cử, và ngay gần đây, ông đã xác định cuộc chiến Afghanistan là cần thiết (war of necessity). Bây giờ mà quyết định phủi tay, bỏ cuộc thì nghe có vẻ đầu đuôi bất nhất. Mà tiếp tục tung quân theo đòi hỏi của các tư lệnh chiến trường thì sẽ có nguy cơ mất hậu thuẫn của phe cấp tiến, cũng như mắc vào cái vòng xoáy không lối thoát của TT Johnson. Đang bối rối, lại còn bị mấy ông thiên tả Na Uy tròng cái vương miện Nobel Hòa Bình lên đầu nữa!
Một điểm giống nhau quan trọng nữa là thái độ của dân chúng Mỹ.
Những ông cao bồi Mỹ thì lúc nào cũng hăm hở làm người hùng, nhưng là người hùng kiểu Ba Búa Trình Giảo Kim thôi. Hết ba búa là hết sức lực và hết ý chí. Cuộc chiến Việt Nam và cuộc chiến Iraq, Afghanistan đều khởi đi với mức hậu thuẫn mạnh mẽ của dân chúng, kể cả khối truyền thông. Nhưng, sau ba ngày mà chưa có tin chiến thắng là dân Mỹ đắt đầu suy nghĩ lại, đặt vấn đề, chê trách chiến lược này, chiến thuật kia, đổ thừa qua lại, chửi bới lẫn nhau, rồi bắt đầu chống đối, và đòi phủi tay. Các vị lãnh đạo trong quốc hội và chính quyền bắt đầu trốn chạy vai trò lãnh đạo để đi theo dư luận, tìm cách cuốn dù để bảo đảm cái ghế dân cử của mình.
Những thăm dò dư luận mới nhất cho thấy hơn một nửa dân Mỹ đã muốn bỏ Afghanistan. Truyền thông và chính khách cũng chuyển hướng theo. Điều đáng buồn cho Việt Nam ta ngày xưa, cũng như cho Afghanistan ngày nay, là khi Mỹ chuyển hướng là họ cũng bắt đầu tìm vật tế thần để biện minh.
Tại Việt Nam ngày xưa, họ viện dẫn lý do là dù người Mỹ cố gắng hết mình nhưng không làm gì hơn được nữa vì quân dân Miền Nam quá yếu, quá thối nát, quá bê bối,… Những lập luận này bắt đầu thấy xuất hiện tại Afghanistan: chính quyền của TT Karzai quá yếu, quá thối nát, phe phái, quân đội và cảnh sát đào ngũ hàng ngày, …
Ngày xưa, TT Ngô Đình Diệm được bốc từ một tu viện Hoa Kỳ về nước, ca tụng như người hùng cứu tinh dân tộc, một Winston Churchill của Á Châu. Ông được mời qua Mỹ, đón tiếp như quốc khách, đọc diễn văn trước lưỡng viện quốc hội, cứ sau mỗi câu là cả quốc hội vỗ tay. Đến khoảng 62-63, khi chính sách cố vấn nhỏ giọt của TT Kennedy thất bại, ông Diệm trở thành một quan lại hủ lậu và độc tài đã làm hỏng chiến lược của Mỹ, và bị “thay thế”.
Ngày nay, TT Karzai của Afghanistan cũng trải qua tình huống tương tự. Ông được Mỹ bốc từ đâu ra không ai biết, được bầu làm tổng thống trong một cuộc bầu cử “mẫu mực”, tiêu biểu cho tính dân chủ kiểu Mỹ. Một gương sáng cho khối Hồi giáo. Bây giờ cuộc chiến gặp khó khăn,  TT Obama muốn đổi ngựa, Karzai trở thành người chủ trì cho tham nhũng, thối nát, phe nhóm bộ tộc, và cuộc bầu tổng thống vừa qua là tiêu biểu cho bầu cử gian lận của mấy anh chậm tiến độc tài. Chỉ có điểm khác là… Karzai chưa bị “thay thế”.
Nhìn lại cho kỹ, Afghanistan không phải là Việt Nam. Nhưng cũng đã có mùi nước mắm hơi nặng. Không biết trên nóc Tòa Đại Sứ Mỹ ở Kabul có xây sân thượng cho trực thăng đáp xuống chưa (18-10-09).
Vũ Linh
Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.