Hôm nay,  

Chân Dung Bé Vui Bé Học

28/06/200800:00:00(Xem: 8610)

Chương trình Bé Vui Bé Học.

Nếu ở trên cao nhìn xuống những sinh hoạt Việt Ngữ ở Nam Cali, người ta có thể nhận ra ngay được sự cố gắng khập khễnh uể oải rải rác khắp đó đây, tuy nhiều nhưng kết quả chẳng được bao nhiêu, do thiếu vắng học sinh và trình độ học lực không tiến triển khả quan. Phải chăng người Việt có đầu óc vọng ngoại mà tự khinh chê chính những bản sắc văn hóa của mình và không muốn con mình còn mang dấu vết dòng máu Việt" Phải chăng tiếng Việt không cần thiết ở xứ này" Nhiều khi ta phải tự hỏi, tại sao ngay cả những cơ quan truyền thông Việt Ngữ, cở sở thương mại trong cộng đồng cũng không quan tâm tới sự sống còn của tiếng Việt, khi khách hàng của họ đa số là người Việt" Báo chí Việt Ngữ sẽ tìm đâu ra người đọc khi không còn mấy người biết tiếng Việt" Những chuyện hữu lý và hiển nhiên bày ra trước mặt nhưng chẳng ai thấy không phải là chuyện lạ lùng, nhưng chuyện lạ lùng ở đây đã xảy đến cho tiếng Việt mà chúng ta nói ra miệng hằng ngày. Trong một bối cảnh không mấy tươi sáng này, Bé Vui Bé Học ra đời với niềm mong ước đánh thức được nhiều lương tâm hầu đem lại sự chú tâm xứng đáng của cộng đồng cho môi trường giáo dục Việt Ngữ tại hải ngoại.

Tại sao Bé Vui Bé Học"

Bé Vui Bé Học là một chương trình mang hình thức thi đua của đố vui nhưng không lấy việc thi đua làm chính; vì thế mới có tên “bé vui” trước rồi “bé học” sau. Bé Vui Bé Học chỉ nhằm mục đích khuyến khích việc học tiếng Việt. Đối với các em học sinh người Mỹ gốc Việt, việc học tiếng Việt cũng khó như người Mỹ học tiếng Việt, khó vì tiếng Việt có dấu giọng khác hẳn tiếng Anh. Bởi vậy việc học tiếng Việt đối với các em là một cực hình và các em thường bị bó buộc phải đi học. Nếu chúng ta cứ cố gắng nhồi vào đầu các em “được chữ nào hay chữ nấy” thì tương lai Việt Ngữ ở hải ngoại sẽ có nguy cơ suy tàn. Để tạo luồng sinh khí mới cho môi trường Viêt Ngữ, câu hỏi được đặt ra ở đây là làm cách nào để các em thích thú với tiếng Việt và phụ huynh cảm thấy học tiếng Việt là cần thiết cho con em mình" Nguyên tắc “bé vui” rồi “bé học” là nguyên tắc tìm vui trong việc học. Làm thế nào để tìm vui trong việc học" Bé Vui Bé Học không có tham vọng đưa ra những phương pháp giáo dục trong chiều hướng này mà chỉ muốn nói lên rằng, chiều hướng vui trong học có thể thực hiện được với việc giáo dục tiếng Việt, như phương pháp giáo dục hiện thời của giáo dục Hoa Kỳ. Vì mục đích đó, chương trình Bé Vui Bé Học (BVBH) sẽ đặt chủ đề “vui” lên trên “học” để mong rằng các em học sinh theo dõi ti vi sẽ cảm thấy học Việt Ngữ không phải là sự buồn chán, rằng tiếng Việt, văn hóa Việt có rất nhiều điều hay và thích thú.

Để tạo được không khí vui tươi thì dĩ nhiên, hình thức đố vui của BVBH không được mang sắc thái uyên bác, cao siêu hoặc khúc mắc của những chương trình đố vui để học thuần túy. BVBH không nhắm chọn lựa ra những học sinh xuất sắc mà chỉ muốn đưa ra những điểm son của ngôn ngữ và văn hóa Việt với mục đích phổ biến và dạy tiếng Việt cho trẻ em Việt Nam ở khắp nơi qua hệ thống ti vi. Các em thí sinh đi thi, thực ra đã đóng vai trò “giáo viên Việt Ngữ” rất hữu hiệu trong việc này. Hình thức thi đua chỉ là phương tiện để BVBH thực hiện mục đích cuối cùng là giáo dục Việt Ngữ. Hơn nữa BVBH là chương trình cho các em thiếu nhi từ 11 tuổi trở xuống, cỡ tuổi chỉ mới bập bẹ được vài câu ca dao thông thường như: công cha như núi Thái Sơn, hoặc mới chỉ đánh vần được những chữ giản dị và thực dụng như: ba má, búp bê, chứ không phải văn thơ như: thoang thoảng, tưởng tượng. Về kiến thức, các em chỉ mới biết tên những đồ vật gần gũi trong nhà như: cái bàn, cái tô, chứ không phải những sự vật cao xa như: không gian, kinh tế. Phạm vi giáo dục của BVBH nằm ở giai đoạn đầu tiên của chương trình giáo dục Việt Ngữ và muốn phô bày một bộ mặt dễ thương đáng quý của Việt Ngữ để phụ huynh nhận thức được sự cần thiết của tiếng Việt đối với con em, do đó sẽ hăng hái ghi danh cho con em học tiếng Việt. Ở vai trò này, BVBH muốn làm chất xúc tác giúp cho sự phát triển của các trường dạy Việt Ngữ.

Giáo dục Việt Ngữ không hẳn chỉ là giáo dục về kiến thức mà còn về giáo dục con người. BVBH không quên bao gồm những giá trị luân lý, đạo đức và văn hóa để gầy dựng một con người khuôn mẫu với những đức tính căn bản làm người như: lòng nhân, lễ nghĩa, hy sinh, ngay thẳng, kỷ luật. Đây là những điểm khiếm khuyết của giáo dục sở tại mà nguời Việt chúng ta nên bổ xung qua những chương trình dạy Việt Ngữ để giúp phần xây dựng tuổi trẻ Việt Nam giỏi giang và đạo đức. Nếu thiếu vắng sự giáo dục đạo đức, nhân nghĩa cho các trẻ em Việt, thì một ngày nào đó, cộng đồng người Việt ở hải ngoại sẽ suy đồi. Hơn nữa, không có nền giáo dục nhân bản nào thích hợp với người Việt hơn chính nền văn hóa của mình, vì nó bao gồm những kinh nghiệm sống, sự khôn ngoan, lời hay ý đẹp đã được trui rèn mấy ngàn năm, và đặc biệt chỉ dành riêng cho người Việt.

Cộng đồng cũng khó vững mạnh nếu thiếu vắng nhân tài lãnh đạo. Chúng ta cần phải nuôi dưỡng và hun đúc nhân tài lãnh đạo ngay từ còn bé. Nhìn chung những hoạt động của cộng đồng, chúng ta không thiếu những sinh hoạt nhắm vào mục tiêu thời đại, nhưng chúng ta hình như không mấy để ý chuyện xây dựng, nâng đỡ những thế hệ tiếp nối. Chương trình BVBH nói riêng và công việc giáo dục Việt Ngữ tại các trường Việt Ngữ là những cố gắng để xây dựng nền tảng vững chãi cho sự tồn tại của cộng đồng người Việt, bằng cách nuôi dưỡng và gầy dựng những thế hệ trẻ Việt Nam biết hướng lòng về quê hương và hiểu biết chân giá trị của truyền thống văn hóa, hầu giúp phần nâng cao phẩm chất cộng đồng người Việt hải ngoại và tiếp nối công cuộc tranh đấu cho một Việt Nam tự do dân chủ.

Nội dung tài liệu BVBH

Lý tưởng và mục đích thường là những gì cao đẹp nhưng xa vời. Chương trình BVBH không có mong ước xa xôi để giải quyết những vấn nạn có tầm mức quốc gia, dân tộc hoặc cả thế hệ. BVBH chỉ mong đi bước đầu tiên để làm viên gạch lót đường cho những công trình Việt Ngữ to lớn hơn trong tương lai. Bởi thế nguyên tắc điều hành cũng như việc chọn lựa chủ đề, soạn thảo câu hỏi đều dựa trên những yếu tố khiêm nhường theo thứ tự như: giản dị, vui nhộn, nghệ thuật và chính xác.

Tại sao giản dị có ưu tiên hàng đầu"

Đối tượng của BVBH là các em thiếu nhi 11 tuổi trở xuống sinh trưởng ở Mỹ. BVBH muốn dạy các em học tiếng Việt thì phải dùng loại ngôn ngữ và những kiến thức của những lớp sơ cấp như lớp 1, lớp 2. BVBH không muốn trở thành một màn trình diễn bao gồm những “diễn viên” với tài học xuất chúng để thỏa mãn tầng lớp khán giả trí thức. Nhưng ngược lại, các thí sinh đi thi là những em học sinh thật đang theo học Việt Ngữ tại các trường Việt Ngữ. Điều này nhằm đưa ra ánh sáng sự thật về khả năng tiếng Việt của con em chúng ta, hầu đáp ứng cho những công trình nghiên cứu nhằm nâng cao trình độ tiếng Việt cho con em. BVBH muốn là một chương trình giáo dục thiếu nhi và dành riêng cho thiếu nhi, do đó sẽ dùng loại ngôn ngữ của thiếu nhi. Đôi khi loại ngôn ngữ này thiếu sót, đơn giản, ấu trĩ…. Nhưng vấn đề này không phải là điều đáng quan tâm. Điểm chính là đối thoại được với các em rồi từ đó sẽ dẫn đến giáo dục.

Tại sao phải vui đùa trong việc học"

Theo quan niệm cổ xưa, học là phải “dùi mài kinh sử”, phải nghiêm trang. Lớp học phải im phăng phắc không một tiếng động ngoại trừ tiếng giảng bài của thầy cô. Đây là sản phẩm của quan niệm dưới ảnh hưởng Khổng Giáo, nhằm xây dựng một xã hội thuần nhất của thời quân chủ xa xưa. Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và sự đa dạng của xã hội, sự học cần phải có phương pháp khác thích hợp với thời thế, đó là tạo nên ý chí ham học, tức là vui trong việc học. Trong môi trường nhỏ hẹp của Việt Ngữ, nếu chúng ta tạo nên được sự vui thú trong chuyện học tiếng Việt thì không lo gì các em thờ ơ học tiếng Việt. Đây là một thách đố khó khăn nhưng BVBH muốn thử để, nếu thành công, sẽ là mô hình cho công cuộc giáo dục Việt Ngữ hải ngoại. BVBH muốn chuyển đổi việc học tiếng Việt từ chỗ bắt buộc sang tự nguyện và vui thú vì chỉ có vậy mới giúp cho việc học tiếng Việt được phổ biến rộng rãi và hiệu quả. Ngoài vấn đề hấp dẫn các em, BVBH còn muốn thu hút phụ huynh xem chương trình để họ nhận thức được sự cần thiết của tiếng Việt đối với con em, và do đó tạo nên nhu cầu học tiếng Việt.

Tại sao phải có nghệ thuật trong việc học"

Với sự thay đổi nhanh chóng về mọi mặt của thế giới ngày nay, ai đứng một chỗ một thời gian sẽ trở thành “khủng long”. BVBH là một chương trình giáo dục ti vi nên cần phải thay đổi luôn luôn để hấp dẫn khán giả và sống còn. Do đó yếu tố nghệ thuật là cần thiết để giúp cho sự sáng tạo được liên tục. Một chương trình dựa trên nghệ thuật sẽ thay đổi muôn màu và bất biến để luôn tạo nên những bất ngờ cho khán giả. Từ đó sự tồn tại của chương trình mới được bảo đảm và đứng vững.

Tại sao chính xác bị đặt ở ưu tiên cuối cùng"

Dường như yếu tố giản dị và chính xác là hai yếu tố trái ngược" Có lẽ vì thế nên BVBH đã đặt yếu tố chính xác ở hàng cuối vì đã chọn giản dị ở hàng đầu. Những câu hỏi và bài học cần phải được chính xác vì là giáo dục. Thật đúng như vậy nhưng thực tế không cho chúng ta có tất cả những cái tốt vào một chỗ. Thông thường chúng ta chỉ được chọn một trong hai. Hơn nữa chính xác cũng có nhiều mực độ khác nhau. Đối với một khoa học gia thì chính xác có ý nghĩa tuyệt đối, nhưng đối với một nhà thơ thì chính xác là từ con mắt nhìn của họ. Nhà khoa học nói “tia nắng” nhưng nhà thơ nói “giọt nắng”, chuyện ai đúng ai sai không phải là vấn đề BVBH muốn tranh cãi. Do đó BVBH cũng có một mức độ chính xác của riêng mình, miễn là độ chính xác đó chuyển đạt được tới các em học sinh thiếu nhi, ngõ hầu giúp cho các em đi từng bước trên con đường học Việt Ngữ. Vì BVBH dành riêng cho các em thiếu nhi sinh trưởng ở Mỹ, khả năng tiếng Việt của các em nên được nhìn dưới góc cạnh của một người Mỹ học tiếng Việt; chẳng hạn, những chuyện rất tầm thường và không thể lầm lẫn đối với chúng ta như “cây ngả”,  các em lại nói “cây té”. Nếu BVBH không nhận thức ra những điều này thì sẽ phục vụ sai đối tượng. Do đó BVBH chọn loại ngôn ngữ bình dân (common sense) thay vì ngôn ngữ bác học (academic) trong việc chọn đề mục cũng như nội dung các bài học thi. Như đề mục văn hóa trong BVBH là món ăn, cách phục sức chứ không phải những tục lệ, lễ hội khó hiểu và xa rời thực tế đối với các em. Trong BVBH, chính xác là sự tương đối, có mực độ và thay đổi theo trình độ học vấn của học sinh.

Về vấn đề ngôn từ sử dụng, cách dùng từ và đặt câu, lập trường của BVBH là không dùng và không bắt chước lối viết cũng như cách dùng từ hiện thời ở trong nước. BVBH quan niệm, không có sự đúng sai, phải trái, cũ mới trong ngôn ngữ. Ngôn ngữ bắt nguồn từ quần chúng chứ không phải từ các học giả uyên thâm dùng lý luận ngụy biện với ngầm ý bênh vực một thể chế độc tài như chính quyền trong nước đang làm. Người Việt hải ngoại có quyền dùng loại ngôn ngữ của riêng mình và không nhất thiết phải rập khuôn ngôn ngữ của người trong nước. Ngôn ngữ muốn phát triển và đa dạng thì phải nằm ở trong môi trường tự do. Ngược lại, nếu ngôn ngữ bị kiềm chế, kiểm soát  bởi một quyền lực độc tài thì sẽ trở thành một ngôn ngữ què quặt, nghèo nàn và sẽ suy thoái dần vì chỉ được dùng làm công cụ để củng cố quyền lực của một thiểu số thống trị. Thứ ngôn ngữ đó không thể là loại ngôn ngữ được xem là tiến hóa theo đà phát triển tự nhiên và tiến bộ được. Ngày nay, ngôn ngữ ở trong nước đã làn tràn và được dùng hằng ngày trên báo chí cũng như truyền thông không ít ở hải ngoại, và buồn thay, còn được nhiều người cỗ võ. Riêng BVBH là một chương trình giáo dục thiếu nhi sẽ cố gắng giữ vững mảnh đất cuối cùng với hy vọng giáo dục cho những thế hệ tương lai một loại ngôn ngữ của người Việt tự do đầy màu sắc, phong phú và sáng tạo. 

Tổ chức và điều hành

BVBH là một trong những chương trình sinh hoạt của Ban Đại Diện các Trung Tâm Việt Ngữ Nam Cali (BĐD). BĐD là một tổ chức vô vị lợi đại diện cho các trường Việt Ngữ. Vai trò đại diện là vai trò phụ giúp, phò trợ các trường Việt Ngữ bằng cách cung cấp sách giáo khoa, tổ chức các cuộc thi cử để các trường có cơ hội kiểm điểm trình độ học sinh của mình với những trường bạn, tổ chức những lớp huấn luyện về phương pháp và kiến thức sư phạm. Đây là những viên gạch cần phải có để xây dựng một lớp học và bước kế tiếp là vấn đề đi kiếm học sinh. BVBH ra đời với chủ đích đem thêm nhiều học sinh đến cho các trường và mong giúp khơi dậy sự hăng hái học tiếng Việt trong cộng đồng. Cánh buồm của con thuyền Việt Ngữ, cho tới ngày nay vẫn chưa được lộng gió. Các trường Việt Ngữ vẫn phải cần đến sự hy sinh, đóng góp vô vị lợi của biết bao thầy cô và cộng sự viên để mong chuyển đạt gia tài tiếng mẹ cho những thế hệ hậu duệ. Nhiều khi những sự hy sinh đó như tiếng vang trong sa mạc và không mấy phụ huynh lưu tâm một cách nhiệt tình về chuyện học Việt Ngữ của con em. Nhiều phụ huynh xem các trường Việt Ngữ là nơi giữ trẻ ít tốn kém và có phẩm chất. Việc đem con đến trường chỉ là để có thì giờ rảnh làm những công chuyện khác, ngoài ra không hề quan tâm đến sự tiến bộ của con em. BVBH mong ước giải tỏa được vấn đề này và đưa chuyện học Việt Ngữ trở thành nhu cầu giáo dục cho mọi trẻ em Việt Nam tại hải ngoại. Từ đó giúp nâng cao số lượng học sinh ghi danh theo học Việt Ngữ.

Về phương diện điều hành, ngoài mục đích chính là giáo dục, BVBH còn là một chương trình giải trí thiếu nhi (entertainment program). Yếu tố giải trí bắt chúng ta phải vui trước học sau và ảnh hưởng đến nội dung những câu hỏi. BVBH phải dùng loại văn chương bình dân và những kiến thức thông thường dễ hiểu và thích hợp với đại đa số quần chúng. Một chương trình ti vi thành công cần phải có một số đông người coi và chính điều này là thước đo mà BVBH dùng để ước tính mức độ thành công của mình. Bởi thế khán giả trí thức sẽ chỉ tìm thấy những điều rất tầm thường về nội dung câu hỏi và trong sự thi đua, đôi khi học vấn phải nhường chỗ cho sự may mắn. Khi đám mây văn chương bác học nhường chỗ cho văn chương bình dân thì ánh sáng vui nhộn ló dạng. Không khí sinh hoạt của BVBH là một không khí vui nhộn, cởi mở. Cuộc thi không phải là đấu trường mà các em thi đua trong tinh thần học hỏi và tìm vui. Niềm vui nằm ở lúc thi đua chứ không phải khi được thắng cuộc. Trên phương diện này, BVBH muốn là nơi huấn luyện những lãnh đạo tương lai bằng cách giúp cho các em nói năng dạn dĩ trước đám đông ngay từ khi còn bé. Các em của đội thắng giải đã phải trải qua ít nhất 5 lần ra trước công chúng và ống kính của đài truyền hình. Với sự thực tập như vậy, hy vọng chúng ta sẽ rèn luyện được nhiều nhân tài cho tương lai.

Ngoài việc huấn luyện các em học sinh, BVBH còn là nơi huấn luyện thầy cô bằng cách để thầy cô làm nhân viên điều hành chương trình mà không phải những “diễn viên” thiện nghệ; với hy vọng đào tạo ra những những thầy cô có khả năng lãnh đạo để tiếp nối gánh vác những chức vụ quan trọng tại các trường hoặc tổ chức giáo dục thiện nguyện. BVBH còn được làm điểm hội tụ của thầy cô khắp nơi có dịp làm việc chung với nhau để học hỏi và chia sẻ những kinh nghiệm giáo dục, và trong không khí hòa đồng đó còn xây dựng được sự thông cảm, hiểu biết nhau để cùng góp sức xây dựng một cộng đồng Việt Ngữ vững bền và đoàn kết.

Tấm lòng, nhiệt tâm cũng chỉ là những phương tiện tinh thần chưa đủ để giúp một công trình chấp cánh bay cao nếu không có tài chánh. Đài VHN-TV là nguồn tài chánh và phương tiện truyền hình để giúp BVBH bay tới khắp nơi trên đất nước này. Đây cũng là một may mắn cho môi trường Việt Ngữ và mong thay, tương lai sẽ có thêm nhiều những mạnh thường quân ý thức được sự cần thiết của việc truyền đạt tiếng Việt cho những thế hệ trẻ tiếp nối và góp một bàn tay. Tới ngày đó, cộng đồng chúng ta không còn lo “tuột dốc” mà chỉ nhìn về phía trước và tiên đoán mức tăng tiến trước mặt. 

Tóm lại, ngôn ngữ là phương tiện chuyên chở văn hóa và là dòng máu luân lưu trong thân thể của một dân tộc, tiếng Việt còn thì người Việt còn. Nỗi ưu tư về sự tồn tại của tiếng Việt luôn là niềm ray rứt không ngừng với những thầy cô dạy Việt Ngữ nói chung và của Ban Đại Diện các Trung Tâm Việt Ngữ nói riêng. Khi thấy phụ huynh không lưu tâm đến chuyện học Việt Ngữ của con em, khi thấy các em quên dần tiếng Việt, chúng ta tự hỏi: nếu cứ đà này thì tương lai tiếng Việt và cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ đi về đâu" Có thể nào một ngày nào đó, bảng hiệu của các hàng quán và cơ sở thương mại trong khu Little Saigon chỉ toàn tiếng Anh" Chắc chắn không ai muốn chuyện này xảy ra. Nhưng hiện tại, chúng ta nên làm gì để điều đó không trở thành hiện thực" Trong tầm tay của mình, BĐD và các thầy cô của các trường Việt Ngữ cùng chung sức thực hiện BVBH như một cố gắng mới để đóng góp một phần tích cực trên con đường bảo tồn tiếng Việt đầy gian nan này.

Trần v Minh

26/6/08

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tuần trước, tình cờ tôi đọc được một bài viết của tác giả Vũ Kim Hạnh được chia sẻ lại qua Facebook. Bài viết có tựa đề là "Cơ hội vàng ở Mỹ sau mức thuế đối ứng 20%", trong đó bà nhắc riêng về kỹ nghệ xuất cảng gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ và thế giới. Trước khi đi vào chi tiết của bài viết, có thể nhắc sơ về bà Vũ Kim Hạnh ắt đã quen thuộc với nhiều người trong nước. Bà từng là Tổng Biên Tập báo Tuổi Trẻ, cũng như nằm trong nhóm sáng lập tờ tuần báo Sài Gòn Tiếp Thị, từng là những tờ báo khá thành công tại Việt Nam.
Franklin D. Roosevelt (1882-1945), Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 32 và là vị tổng thống Mỹ duy nhất phục vụ hơn 2 nhiệm kỳ, đã từng nói rằng, “Tự do của nền dân chủ không an toàn nếu người dân dung túng sự gia tăng của quyền lực cá nhân tới mức trở thành mạnh hơn chính nhà nước dân chủ đó. Điều đó trong bản chất là chủ nghĩa phát xít: quyền sở hữu của chính phủ thuộc về một cá nhân, một nhóm người, hay bất cứ thế lực cá nhân nào đang kiểm soát.” Lời cảnh giác đó của TT Roosevelt quả thật đã trở thành lời tiên tri đang ứng nghiệm trong thời đại hiện nay của nước Mỹ. Tổng Thống Donald Trump trong nhiệm kỳ đầu và gần 8 tháng của nhiệm kỳ hai đã thể hiện rõ ý chí và hành động của một nhà lãnh đạo muốn thâu tóm mọi quyền lực trong tay mình bất chấp những việc làm này có phá vỡ nền tảng tự do và dân chủ mà nước Mỹ đã nỗ lực không ngừng để tạo dựng và giữ gìn trong suốt hai trăm năm mươi năm qua hay không!
Từ lâu trong chính trị Mỹ vẫn tồn tại một quy tắc bất thành văn, khi thì nói lên to rõ “chúng ta tốt đẹp hơn như thế này,” hoặc có khi chỉ thì thầm, nhẹ nhàng, rằng đảng Dân Chủ không nên sa vào bùn lầy. Nhiều thập niên qua, “quy tắc” này đã định hình cả vận động tranh cử lẫn cách cầm quyền lãnh đạo. Tổng thống Barack Obama, bằng sự điềm tĩnh, được xem là bậc thầy về nghệ thuật này, ngay cả khi Donald Trump mở màn thuyết âm mưu “giấy khai sinh giả.” Tổng thống Joe Biden cũng vậy. Ông lèo lái đất nước sau đại dịch bằng chiến lược đặt niềm tin vào sự văn minh, đoàn kết, tin rằng lời kêu gọi phẩm giá có thể giữ thăng bằng cho con thuyền trong cơn chao đảo vì sóng dữ.
Trong nhiều tháng qua, các tài khoản chính thức của Bạch Ốc và Bộ Nội An trên mạng X liên tục tung ra hình ảnh và video (meme) dị hợm: từ ảnh ghép kèm âm thanh chế giễu, những đoạn đăng kiểu TikTok, cho đến tranh vẽ bằng trí tuệ nhân tạo. Đây không phải trò vui của vài nhân viên rảnh rỗi, mà là một chiến dịch có chủ ý, lặp đi lặp lại, như muốn răn: ai mới thực sự được coi là người Mỹ. Trang NPR ngày 18 tháng 8 nhận định: “Các tài khoản chính thức của chính quyền Trump đang khai thác đủ kiểu meme, hình ảnh AI với giọng điệu đầy thách thức trong các bài đăng trên mạng xã hội.”
Trước khi quay lại cùng cuộc họp song phương giữa Trump và Putin tại Alaska, hãy quay lại những cuộc họp giữa Donald Trump và lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong Un trong nhiệm kỳ đầu của Donald Trump. Lần đầu tiên, một đương kim tổng thống Hoa Kỳ đã hạ mình sang Châu Á đến ba lần, lần đầu tại Singapore, rồi Việt Nam và cuối cùng ngay tại khu phi quân sự giữa Nam-Bắc Hàn, để gặp và nâng cao vị thế một tay "Chí Phèo" cộng sản mặt sữa nhưng khét tiếng độc ác lên vị thế chính thức ngang hàng với Hoa Kỳ trên chính trường quốc tế.
Trong căn phòng trắng, lổm chổm những mảng phù điêu mạ vàng trên trần nhà và tường, một người đàn ông mảnh khảnh, nhanh nhẹn bước ra giới thiệu trước ống kính báo chí món quà đặc biệt ông cố ý mang theo tặng Tổng thống Donald Trump. Đó là lần hiếm hoi CEO của hãng Apple, Tim Cook, xuất hiện trong trang phục sơ mi cà vạt vest đen. Ngay cả trong những lần ra mắt sản phẩm iPhone mới hàng năm, vốn được xem là sự kiện quan trọng bật nhất của Apple, người ta cũng không thấy Cook phải bó mình trong bộ lễ phục trịnh trọng như vậy. Tim Cook đã mang đến cho các tín đồ của trái táo một sự bất ngờ, giống như 15 năm trước, ông xuất hiện trên tạp chí Out ở vị trí đầu bảng xếp hạng Power 50, một danh sách xếp hạng những cá nhân đồng tính nam và đồng tính nữ có ảnh hưởng nhất vào thời điểm đó.
Trong những tháng qua, thảm họa đói của người Palestine ở dải Gaza đã làm thế giới rúng động. Tin tức về trẻ em Palestine bị bắn chết trong khi cố len lỏi tới rào sắt để nhận thức ăn viện trợ được truyền đi; nhiều người đặt câu hỏi về lương tri của những kẻ tổ chức “công tác nhân đạo” này (công ty Gaza Humanitarian Foundation do chính phủ Trump hậu thuẫn). UN ước tính có khoảng 1,400 người Palestine đã chết khi tìm cách nhận thực phẩm cứu trợ. Vào tháng 12 năm 2023, Nam Phi đã đệ đơn kiện Israel lên Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) cáo buộc quốc gia này phạm tội diệt chủng ở Gaza. Một số quốc gia khác tham gia hoặc bày tỏ sự ủng hộ đối với vụ kiện, bao gồm: Nicaragua, Bỉ, Colombia, Thổ Nhĩ Kỳ, Libya, Ai Cập, Maldives, Mexico, Ireland, Chile Palestine…
Trí nhớ của một cộng đồng không chỉ mất đi khi thời gian làm phai mờ, mà có khi có bàn tay cố tình tháo gỡ. Không cần nhiều bút mực, chỉ cần bỏ vài dòng, thay một chữ, hoặc xóa một đoạn – câu chuyện lập tức đổi nghĩa. Lịch sử hiện đại đã nhiều lần chứng kiến điều đó. Năm 1933, chính quyền Quốc xã Đức đốt sách giữa quảng trường, thay lại giáo trình, đặt viện bảo tàng và văn khố dưới quyền Bộ Tuyên Giám. Joseph Goebbels nói: “Chúng ta không muốn người dân sử dụng cái đầu. Chúng ta muốn họ hành xử theo cảm tính.” Tám thập niên sau, ở một góc khác của địa cầu, những bản thảo của Trương Vĩnh Ký – người khai sáng nền quốc ngữ Việt – bị loại khỏi thư viện vì bị gán là “tay sai thực dân”. Sau 1975, chính quyền cộng sản xét duyệt văn hóa trên toàn quốc: các tác phẩm học thuật bị cấm; bị đốt, tên tuổi các học giả và nhà văn miền Nam biến mất khỏi mọi tiến trình văn hóa. Tại Hoa Kỳ ngày nay, sự thật không bị đấu tố – nhưng bị biên tập lại.
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.