Hôm nay,  

Mỹ Trao Huy Chương Quí Nhất: Đức Đạt Lai Lạt Ma Đời Thứ 14

10/18/200700:00:00(View: 8084)

Dân chúng ngồi tràn ngoài sân dự khán buổi lễ.

Hoa Thịnh Đốn.- Đức Đạt Lai Lạc Ma 14 đã  được Tổng Thống Bush và Quốc Hội Mỹ trao tặng huy chương Congressional Gold Medal vào lúc 1 giờ trưa ngày 17 Tháng 10, 2007 tại Rotunda, U.S. Capitol  và thuyết giảng sau đó  ở West Lawn Quốc Hội Hoa Kỳ.

International Campaign for Tibet đã phụ trách nhiều chương trình ở đây từ 11 giờ sáng đến 4 giờ chiều.

Đức Đạt Lai Lạt Ma, Nhà lãnh đạo tôn giáo  và cũng là nhà lãnh đạo lưu vong Tây Tạng nói: ”Dân tộc Việt Nam rất anh hùng rất đáng kính trọng. Sau một thời gian khó khăn, khi mức sống của nhiều người được cải thiện thì sức mạnh tinh thần và tâm linh của người Việt sẽ giúp họ tìm ra con đường tốt đẹp hơn cho Việt Nam” . Ngài đã nói như vậy khi  “phái đoàn” của Nhật báo Việt Báo đến viếng thăm Ngài vào ngày 14 Tháng 9, 2006 tại Pasadena, California.

Quốc Hội Hoa Kỳ, với 387 Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ đã thông qua  dự luật trao tặng Đức Đạt Lai Lạt Ma Congressional Gold Medal. Đây là huy chương cao quý nhất dành cho người dân sự. Trước Ngài chỉ có Tổng Thống George Washington, Pope John Paul II, và những người được Giải  Nobel như Nelson Mandela và Elie Wiesel được  huy chương này.

Huy chương cao quý nhất này được trao tặng cho Đức Đạt Lai Lạc Ma là để  vinh danh những đóng góp, vận động lâu dài, nổi bật cho hòa bình,   nhân quyền khắp thế giới và những cố gắng  tìm giải pháp không bạo động cho  vấn đề Tây Tạng qua những cuộc đối thoại với những nhà lãnh đạo Trung Cộng. 

Được biết Đức Đạt Lai Lạc Ma năm nay 72 tuổi. Ngài sinh ngày 5 Tháng 5 năm Ất Hợi (16 Tháng Bảy năm 1935) tại làng Takster trong vùng Ambo ở Miền Đông Bắc Tây Tạng  và Ngài được đặt tên là Lahmo Dhondup. Khi chú bé Dhondup được hai tuổi thì gia đình ngỡ ngàng đón tiếp một phái đoàn từ điện Potala của kinh đô Lhasa đến.

Khi chú bé Dhondup làm một số thử nghiệm theo lời yêu cầu của phái đoàn Lhasa,  phái đoàn xác nhận điều mà họ đã cảm biết được từ những chỉ dạy bí hiểm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 trước khi Ngài viên tịch. Chú Bé Dhondup được công nhận là hóa thân  tái  sanh của Đạt Lai Lạt Ma  thứ  13.

Hai năm sau, lúc 4 tuổi chú bé Lahmo Dhondup được long trọng rước về Lhasa và được tấn phong là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14  ngày 22 Tháng Hai, 1940, với Pháp danh là Jetsun Jamphel Ngawang Lobang Yehe Tenzin Gyatso.

Vào mùa Xuân năm đó , dọc đường cả ngàn vị Tăng và dân chúng Tây Tạng đứng hai bên chào mừng Ngài, họ rất vui mừng và chú bé thì bàng hoàng  vì từ nay đời chú sẽ đổi khác.

Đến năm 1949 Trung Hoa trở thành Trung Cộng. Tháng 10, 1950 Quân của Mao Trạch Đông tiến vào Tây Tạng, năm ấy Đức Đạt Lai Lạt Ma mới 15 tuổi, chưa hoàn tất tu chứng để trở thành một vị sư và cũng chưa hiểu gì ở thế giới bên  ngoài  nhà chùa và cung điện Tây Tạng.  Nhưng trách nhiệm với đạo và đời thì đã  nặng trĩu trên vai và tràn đầy trong trí Ngài từ đấy.

 Năm 1950, Ngài mới 15 tuổi, được đăng quang là Quốc Trưởng và là người lãnh đạo Tây Tạng,  cũng là năm Tây Tạng bị cuốn vào trận cuồng phong của Trung Cộng  với hai làn sóng dữ.  Một  là chủ nghĩa CS không dung thứ  vai trò của tôn giáo,  Phật Giáo, và hai là Trung Cộng muốn đồng hóa Tây Tạng vào cộng đồng Trung Hoa. Tây tạng sẽ là một phần nhỏ của Trung Cộng.

Trong  mười năm liền kế tiếp Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phải vừa hoàn tất việc tu học để trở thành một vị sư  - một tiến trình nhiều gian khổ và khó khăn cho trí tuệ, lại vừa học hỏi về thế giời bên ngoài với trách nhiệm lãnh đạo một quốc gia.  Nhà sư Tensin Gyato bàng hoàng khi nghe Mao Trạch Đông cho Đạo Phật là một thứ độc dược của con người và kế hoạch phát triển Tây Tạng trong cuộc Cách Mạng Vô Sản.

Cả đạo và đời đều bị đe dọa. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma hoàn tất bằng Tiến Sĩ về Phật học thì cũng là lúc Tây Tạng bị thôn tính.

Đêm 17 Tháng 3, 1959 Đức Đạt Lai Lạt Ma cải trang thành thường dân cùng một số nhỏ trong triều đình trốn khỏi Lhasa và băng rừng vượt núi tìm đường thoát ra ngoài.

Từ đấy Trung hoa cũng như Tây Tạng trải qua những biến động do Mao Trạch Đông đề xướng như Cải cách ruộng đất, Chiến dịch tiêu diệt bọn khuynh hữu, Cách mạng văn hóa…kéo dài hơn một phần tư thế kỷ, trong số 20 đến 70 triệu người bị giết có hơn một triệu người Tây Tạng ( 15%).

Có chừng 100 ngàn người Tây Tạng lưu vong, tản mác đi khắp năm Châu. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã xây dựng lại hai thực thể là cộng đồng lưu vong cho hiện tại và cho dân tộc Tây Tạng  tương lai.

Tại vùng đất Dharansaka của Ấn Độ, dưới sự hướng dẫn của Đức Đạt Lai Lạt Ma cộng đồng ấy đã mở một kỷ nguyên vận động quốc tế chưa từng thấy trong lịch sử Tây Tạng và  đạt được những kết quả chưa từng thấy từ nhiều cộng đồng lưu vong khác.

Kể về lực thì thật ra Cộng đồng Tây Tạng lưu vong  không đông mà cũng chẳng giàu, nhưng nói vế thế thì cộng đồng này có sức tác động hiếm có  ở nhiều diễn đàn khác nhau, đó chính là nhờ vị lãnh đạo tinh thần của họ, Đức Đạt Lai Lạt Ma 14. 

Những thử thách chính trị càng trở nên nguy ngập như vụ Thiên An Môn, hằng ngàn người bị thảm sát, lúc đó người  dân Tây Tạng mới hiểu vì sao Đức Đạt Lai Lạt Ma  kêu  gọi dân chúng phải đấu tranh bất bạo động và muốn thảo  luận  chuyện hòa giải với Trung Cộng.

Năm 1989 Đức Đạt Lai Lạt Ma được giải thưởng Nobel  Hòa Bình. Đối với  Đức Đạt Lai Lạc Ma, giải thưởng Nobel vinh danh Ngài nhưng có nghĩa là thế giới công nhận và ủng hộ cuộc đấu tranh có chính nghĩa của nhân dân Tây Tạng.

Trải qua gần nửa thế kỷ,  từ năm 1967 đến nay Đức Đạt Lai Lạt Ma 14  đã thăm viếng gần  năm mươi quốc gia, gặp gỡ hầu hết các vị lãnh đạo dân chủ của thế giới. Đối với Trung Cộng thì đây là một khiêu khích không thể chấp nhận được vì Đức Đạt Lai Lạt Ma không phải là Quốc trưởng của một quốc  gia,  Tây Tạng chỉ là một đặc khu  của Trung Quốc.  Ngài cũng là một vị Tăng Thống đã hân hạnh được gặp ba vị Đức Giáo Hoàng của Giáo Hội Công Giáo Hoàn vũ (ĐGH  Paul VI, ĐGH John Paul II  và ĐGH Benedictine).

Nhờ nhân cách đặc biệt của Ngài mà cuộc đấu tranh bền bĩ của người Tây Tạng mà  ngày nay Tây Tạng đã trở thành vấn đề của Thế Giới và Trung Quốc.

Người Tây  Phương thường lý luận rằng sở dĩ Đức Đạt Lai Lạt Ma chủ trương đấu tranh bất bạo động là vì Ngài chịu ảnh hưởng tinh thần bất bạo động của Thánh Mahatma Ghandi.  Thật ra chiến lược đấu tranh bất bạo động  xuất phát từ cái tâm Từ Bi  của một nhà tu hành. Nhất là Ngài được thế giới coi là  hóa thân của một vị Bồ Tát mà người Việt  gọi là Quán Thế Âm Bồ Tát, là vị Bồ Tát của Từ Bi,  một đức tính của Nhà Phật. Ngài thông cảm với những người có tinh thần đấu tranh quyết tử, nhưng tâm từ bi thì luôn hướng về sự thuyết phục hòa bình.

Nhìn về quê hương Tây Tạng, Ngài là một nhà lãnh đạo tài ba, nhìn ra thế giới bên  ngoài, Ngài là người có công hoằng pháp vĩ đại nhất của Phật giáo. Thông điệp về hòa bình và từ bi của đạo Phật đã như những giọt nước cam lồ tưới mát cho hiện trạng nóng bỏng của thế giới ngày nay. Chưa khi nào sức bành trướng của Phật Giáo mạnh mẽ như ngày nay, một phần nhờ vào Đức Lạc Lai lạt Ma, vị Tăng Thống  Phật Giáo Tây Tạng. Ngài được coi như một Đức Giáo Hoàng của Phật Giáo.

Ảnh hưởng của Ngài  không chỉ hạn  hẹp trong lãnh vực chính trị của Tây Tạng mà trong cách suy nghĩ và cách sống của rất nhiều người qua những luận giải của Ngài về Phật Giáo. Luận giải của Ngài giúp nhiều người thức tĩnh và nhớ tới ánh sáng Từ Bi của Đạo Phật, trong  thế giới âm u ngày nay.

Ngoài việc nhấn mạnh đến Từ Tâm như một bản sắc rực rỡ của Đạo Phật, Đức Đạt Lai Lạt Ma còn hiện đại hóa Phật Giáo cho Thế Kỷ 21. Ngoài hai đóng góp lớn về lòng Từ Bi và tinh thần hiện đại hóa, Đức Đạt Lai Lạt Ma còn thể hiện đức tính cung kính và khiêm nhường.

Là một nhà lãnh đạo lưu vong, Đức Đạt Lai Lạt Ma thấu hiểu tâm trạng của những người Việt lưu vong. Thế giới ngày nay đầy dẫy những oán thù, xung đột và cả khủng bố, Ngài đề cập đến vấn đề Việt Nam  như sau. Tinh thần Tây Tạng không chỉ là ý  thức chính trị, là lòng khát khao tự do, mà cũng là một sức mạnh tâm linh nhắm vào sự giải thoát bằng lòng từ bi. Lòng từ bi là chân tánh của chúng ta. Trong nhiều hoàn cảnh, chân tánh ấy có thể bị đe dọa. Khi để thù hận nổi lên, mình đánh mất lòng từ bi, nghĩa là mình đã thua. Sự giác ngộ  giúp chúng ta vượt chặng đường khổ ải mà vẫn giữ được từ tâm  đối với những người làm mình khổ.

Nói về Phật tử, Đức Đạt Lai Lạt Ma khuyên đừng nghĩ tới việc xây chùa hay sự giải thoát cho bản thân mình dưói mái chùa. Ngài cảnh tĩnh các Tăng Ni là phải mở rộng ra thế giới bên ngoài,  đừng chấp vào những lễ tục bí hiểm trong chùa với chiêng trống om xòm. Hãy  bước ra khỏi chùa,  tham gia vào các sinh hoạt xã hội . Từ đó mình hiểu được các vấn đề của xã hội , của con người và tìm ra những giải đáp cho các vấn đề ấy bằng giáo lý Phật Giáo.

Và trong mọi hoàn cảnh, tình huống, không bao giờ đánh mất lòng từ bi của mình. Nuôi dưỡng từ tâm chẳng những có lợi cho sức khỏe  bản thân mà còn ích lợi cho đời sống và  cho hòa bình của nhân loại.

Nói về Việt Nam, Đức Đạt Lai Lạt Ma viết trong một thông điệp gởi cho Nhật Báo Việt Báo: ” Dân Tộc Việt Nam cũng đã trải qua một chấn động lớn trong Thế Kỷ hai mươi và đã vượt qua rất nhiều thử thách như dân Tây Tạng. Tôi tin rằng cùng chịu ảnh hưởng rất nhiều của Phật Giáo, hai nền văn minh Tây Tạng và Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng. Mỗi nền văn  minh lại có một lịch sử lâu dài, đa sắc đa diện và ngay trong hiện tại, nền văn hóa phong phú mà thực chất là sự hiếu hòa của chúng ta hàm chứa một khối kinh nghiệm hữu ích nếu được quảng bá cho các nền văn  minh khác. “

(Kết hợp với tài liệu từ Việt Báo  và www.dalaidamadc.org)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.