Hôm nay,  

Mấy Kỷ Niệm Dễ Thương Tại Geneva, Thụy Sĩ

20/11/200900:00:00(Xem: 6836)

Mấy Kỷ Niệm Dễ Thương Tại  Geneva, Thụy Sĩ

Đoàn Thanh Liêm 
Tôi có hai lần đến thăm viếng và làm việc ở thành phố Geneva, Thụy sĩ vào năm 1970 và 1972. Lần đầu tiên, tôi được anh bạn Đặng Tiến chở xe hơi từ Pháp qua thăm viếng bạn bè ở thành phố này trong một tuần lễ vào cuối năm 1970. Lần thứ hai là vào đầu năm 1972, tôi đi máy bay từ Saigon đến thẳng Geneva để làm việc với World Council of Churches (WCC =Hội đồng Tôn giáo Thế giới) trong khoảng một tháng. Cả hai lần, tôi đều gặp gỡ nhiều bà con, bạn hữu người Việt cũng như người ngoại quốc. Và hai chuyến đi này đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm dễ thương khó mà quên được.
Nay rảnh rỗi mà nhớ lại cái thời trai trẻ còn hăng say với công việc về văn hóa xã hội tại mấy thành phố ở Âu châu vào thập niên 1970, tôi xin ghi lại mấy kỷ niệm ngộ nghĩnh đó để chia sẻ với bà con đọc cho vui vậy nhé. Đầu tiên là tại thành phố Geneva, Thụy sĩ.
1/Vào thời đó tại Geneva có rất ít người Việt, chỉ có một số sinh viên du học và vài ba viên chức ngoại giao làm việc tại văn phòng liên lạc với Liên hiệp quốc. Đặng Tiến và tôi cư ngụ tại nhà anh chị Tôn Thất Duyệt – Hương ngay tại khu downtown. Tôi thật tình cờ được gặp lại anh Nguyễn Hữu Trụ là bạn cùng học tại trường Luật Saigon hồi giữa thập niên 1950. Trụ vừa bảo vệ thành công luận án tiến sĩ luật tại đại học Geneva và đang đợi được bổ nhiệm làm giảng viên tại một trường đại học trong vùng. (Năm 1972, tôi qua lại Geneva, thì gặp đúng lúc Trụ làm đám cưới với một cô y tá người  Thụy sĩ, và tôi là người bạn duy nhất từ Việt nam qua tham dự trong bữa tiệc cưới tại đây). Trụ cũng cho tôi nguyên văn bản luận án được nhà xuất bản đại học trình bày rất gọn gàng đẹp đẽ, nhan đề là : “La succession d’état au Vietnam après la dissolution du régime colonial francais”.
Cũng vào dịp cuối năm 1970 này, các bạn Tiến và Duyệt còn chở tôi tới đại học Fribourg để tôi viếng thăm anh bạn người Balan tôi không còn nhớ rõ tên, mà là phu quân của chị Trần Thị Lài, ái nữ của cụ Trần Văn Lý, nguyên Thủ hiến Trung Việt thời chánh phủ Bảo Đại. Anh bạn này làm Tổng thư ký Pax Romana (Phong trào Quốc tế Trí thức Công giáo MIIC), nhưng rất tiếc là vì sát với dịp lễ Noel, nên anh bạn đã về quê ở Balan. Thành ra tôi đã không được gặp anh, như chị Lài đã dặn tôi khi chị về Saigon dịp đáng tang cuả cụ thân sinh cuả chị vào giưã năm 1970. Fribourg cũng như Lausanne là khu vực nói tiếng Pháp gọi là Suisse Romande, để phân biệt với khu vực nói tiếng Đức gọi là Suisse Allemanique như ở thành phố Zurich.
Tôi cũng đến thăm mục sư Graeme Jackson, người Anh làm việc với WCC. Chúng tôi quen nhau vào năm 1969 khi ông đến thăm Việt nam. Ông bà mời tôi tới nhà dùng cơm, đặc biệt bà đãi tôi cái món “fromage fondu”, tức là trộn mấy thứ pho mát nấu chung với rượu vang cho chảy hết ra trong một cái nồi sôi sục, và dùng chiếc xiên có quấn bánh mì để chấm vào fromage nóng chảy, rồi đợi một chút cho nguội bớt mà ăn. Bà mục sư giải thích cho tôi đây là món ăn lâu đời trong các làng quê ở Thụy sĩ, gặp lúc trời đổ tuyết nhiều không đi lại được, có khi cả tuần lễ liền, thì người ta mới chế ra cái món này để nấu cho gia đình ăn. Dĩ nhiên là tôi cũng đến thăm trụ sở của WCC ở khu ngoại ô Geneva, trên đường nổi danh là Route de Ferney, mà hồi xưa văn hào Voltaire đã tới cư ngụ một thời gian dài. Nhân tiện, cũng xin ghi thêm Geneva là nơi giảng đạo của một trong các nhà sáng lập phong trào cải cách Thiên chúa giáo vào hồi thế kỷ XVI (Reformation), đó là Jean Calvin. Nên thành phố vẫn còn giữ được nguyên vẹn căn nhà xưa của Calvin để làm viện bảo tàng. Còn về văn hào Jean Jacques Rousseau, một công dân nổi danh của Geneva, thì có một bức tượng khá đẹp được đặt trên hòn đảo nhỏ trong hồ Geneva, mệnh danh là “Ile de Rousseau”.
Quả thật Geneva không những là một thành phố quốc tế với cả mấy ngàn tổ chức ngoại quốc, kể cả các tổ chức của Liên hiệp quốc, mà còn chứa đựng rất nhiều di tích văn hóa lịch sử của Âu châu. Nhất là nước Thụy sĩ suốt mấy trăm năm nay đã tránh được cảnh chiến tranh tàn phá, nhờ vào sự khôn khéo giũ được tính cách trung lập trong vùng này. 
Dĩ nhiên là Geneva còn có một địa danh rất nổi tiếng khác, đó là hồ Leman, mà hồi năm 1954, ông Võ Thành Minh đã căng lều thổi sáo não nùng bao nhiêu ngày đêm bên cạnh bờ hồ, để phản đối việc quốc tế ra quyết định chia cắt nước Việt nam thành 2 phần qua “Hiệp định Geneva 1954”. Hồ này rộng lớn như một cái biển, giáp ranh đến cả nước Pháp nữa. Đặc biệt giữa hồ còn có một cột phun nước cao đến cả hàng trăm thước, khách du lịch coi thấy thật là lạ mắt và sinh động; mà gặp bữa trời có gió mạnh, thì nước bị thổi bay tới cả mấy con đường ven hồ nữa. 
2/ Năm 1972, tôi nhận cộng tác với WCC trong cương vị là Giám đốc Văn phòng nghiên cứu và Liên lạc tại Saigon (Saigon WCC Research and Liaison Office). Do vậy mà tôi được mời sang làm việc, trao đổi với các cơ quan thuộc WCC tại Geneva đến cả một tháng trời. Người bạn Việt nam mà làm việc với WCC tại Geneva là anh Nguyễn Tăng Cảnh, vốn là một sinh viên du học tại Thụy sĩ đã từ lâu. Anh Cảnh sắp xếp chương trình làm việc cho tôi ở đây rất chu đáo, cụ thể là giới thiệu cho tôi đến gặp gỡ trao đổi với các viên chức trong ban lãnh đạo các cơ sở chuyên trách thuộc hệ thống WCC. Nhờ vậy mà tôi có dịp thấu hiểu tường tận hơn về đường lối hoạt động của WCC, để từ đó mà đề ra chương trình làm việc riêng của văn phòng ở Saigon sao cho thích hợp với chủ trương đường lối của WCC liên hệ đến Việt nam. Chi tiết về chuyện này khá dài dòng và có tính cách chuyên môn về sinh hoạt tôn giáo, tôi sẽ xin viết vào một dịp khác.


Vì lần này, tôi ở lại Geneva đến cả một tháng, nên có dịp gặp gỡ nhiều bạn hữu một cách rất tình cờ với nhiều câu chuyện ngộ nghĩnh. Trước hết là chị Catherine Schenker người Thuỵ sĩ, mà cũng lại ở Geneva. Tôi gặp và quen biết với chị trong chuyến bay từ Bangkok đến Cairo. Chị đi cùng đoàn ký giả đài truyền hình Âu châu (Eurovision) để làm phóng sự về Thế vận hội muà Đông được tổ chức tại Sapporo Nhật bản, và nay đang trên đường trở lại Âu châu. Sau khi đến Geneva ít lâu, thì Catherine cùng bà mẹ đến đón tôi về nhà chơi ăn cơm vào một buổi tối. Bà cụ nấu ăn rất ngon và cả hai mẹ con đều tiếp đãi tôi rất thân tình, lịch sự. Cụ khen là tổ chức WCC mà tôi cộng tác, thì rất tiến bộ đàng hoàng. Tôi có hỏi thăm về ông cụ, thì bà cho biết là ông đang phải làm việc bên London, Anh quốc. Thật là một gia đình hạnh phúc, ấm cúng.
Vào muà hè năm 1972 đó, ở Saigon tôi lại nhận được một tấm thiệp cuả Catherine gửi đi từ Munich, Đức quốc. Chị mô tả vụ quân cảm tử Palestine vaò giưã đêm đã đột nhập vào khu vực cư ngụ cuả các lực sĩ Do Thái và gây ra cảnh giết chóc kinh hoàng tại làng Thế vận hội ở Munich. Chị viết: Tôi vưà phải chứng kiến cuộc khủng bố. “Quelle horreur!” (Thật là hãi hùng!)
Một chị bạn khác là Eva trong nhóm nữ tu công giáo  “Nữ Trợ tá Quốc tế” (AFI = Auxiliaires Feminines Internationales). Eva dẫn tôi đến ăn trưa với một nhóm thanh niên trẻ cỡ trên dưới 30 tuổi. Có người là linh mục công giáo tại một xứ đạo Pháp sát với biên giới Thuỵ sĩ. Để làm kế sinh nhai, ông làm tài xế xe vận tải cho một hãng chuyên buôn bán nông phẩm. Mỗi buổi sáng, ông lái xe chở hàng rau tươi, thịt v.v... sang Geneva. Rồi buổi chiều mới về lại xứ đạo để làm lễ. Có người là sinh viên từ bên Italia qua học ở đây, nhưng lại tự nguyện dấn thân vào việc bênh đỡ các công nhân ngoại quốc đến làm việc tại Thuỵ sĩ, gọi là “migrant workers”. Họ cùng Eva và một vài bạn khác hơp lại để ăn bưã trưa chung với nhau, và trao đổi về các vấn đề xã hội cấp bách cần phải giải quyết tại điạ phương. Gặp tôi mới từ Việt nam tới, thì họ cũng tò mò hỏi tôi về tình hình cuộc chiến tại Việt nam liệu có triển vọng chấm dứt ra sao. Tôi nói là vào  năm 1972 này, thì viễn ảnh hoà bình đối với dân Việt nam chúng tôi vẫn còn xa vời lắm. Đaị khái nhóm này là một hình thức gặp gỡ cuả những người trẻ có sự quan tâm đến vấn đề xã hội trong môi trường xung quanh mình, mà tôi thấy họ thật tâm muốn đóng góp cụ thể vào vấn đề cải thiện nếp sinh hoạt cuả cộng đồng điạ phương nơi thành phố Geneva này. Là một khách mời, tôi tế nhị để tâm theo dõi quan sát nhiều hơn là tham gia thảo luận với họ.
Có một buổi chiều anh David Gill, người gốc ở New Zealand mà làm việc với WCC, anh lấy xe chở tôi lên núi chơi. Chạy loanh quanh cả một giờ đồng hồ theo đường thoai thoải lên dốc, rồi David ngừng xe bên một bờ hồ gần đỉnh nuí và mời tôi uống bia tại một quán lộ thiên ven hồ. Phong cảnh vào muà xuân nơi đây thật đẹp đẽ và êm ả lạ thường. David chỉ cho tôi coi một khúc tường dài cả trăm mét, cao đến 3 mét dọc theo sườn núi và nói đó là một mảnh còn lại cuả bức trường thành mà quân đội La mã xây dựng dọc theo biên giới khắp Âu châu cách nay cũng đến gần 20 thế kỷ, để bảo vệ cho cái đế quốc cuả họ. Sát liền với bức tường còn có cả một con lộ lát toàn bằng đá đủ rộng cho xe ngưạ có thể di chuyển được. Đó quả là một công trình vĩ đại, nó làm tốn phí không biết bao nhiêu là tiền bạc và công sức cuả người La mã, cũng như cuả người dân trong các xứ bị họ xâm lăng chiếm giũ. Nhưng rút cục, bức trường thành này cũng đã chẳng bảo vệ được cho đế quốc La mã khỏi sụp đổ vào thế kỷ thứ tư sau công nguyên! Tôi bèn nảy ra ý nghĩ riêng, mà không nói với David : “ So với bức trường thành này, thì bức tường Berlin mà người cộng sản xây lên bên nước Đức vào năm 1961, nào có thấm vào đâu " “
Ngoài ra còn một chuyện tức cười khác, nó chứng tỏ sự quê kệch cuả tôi. Đó là anh Nguyễn Tăng Cảnh và tôi được ông bà mục sư Mottu ở Geneva mời đến nhà dùng cơm tối. Chẳng là ông bà sắp sưả qua Saigon để coi sóc nhà thờ tin lành cuả người nói tiếng Pháp toạ lạc trên đường Thống nhất (Eglise Reformee de langue francaise). Cảnh lấy xe chở tôi đi. Dọc đường tôi đề nghị anh cho tôi mua một ít hoa tặng bà mục sư. Đến nhà ga xe lưả, Cảnh ngừng xe để cho tôi vào đó mua hoa. Tôi chọn mua một lẵng hoa đẹp nhất, và người bán hoa lại khen rằng bó hoa này sẽ làm đẹp lòng người yêu cuả bạn đó (votre bien aimée). Khi tới nhà gia chủ, tôi đã đem tặng cho bà Mottu. Bà vui vẻ cảm ơn. Và chúng tôi được mời vào trong nhà dùng cơm và chuyện trò thật vui vẻ, thân tình với hai ông bà đã vào tuổi trên 50.
Sau vài giờ, chủ nhà tiễn chúng tôi ra về. Trên đường về nhà, Cảnh nói với tôi : “Ông có để ý không, lúc ông tặng hoa cho bà Mottu, thì mặt bà ấy đỏ hẳn lên. Vì hoa ông tặng là loại hoa hồng, mà theo phong tục người phương Tây, thì loại hoa đó chỉ để tặng cho người yêu mà thôi!“ Tôi thật chưng hửng, nhất là khi nhớ lại lời khen cuả người bán hoa tôi vưà mua tại nhà ga khi nãy. Rõ ràng tôi là một thằng nhà quê hết chỗ nói. Ở Saigon, chẳng gì mình đã là một vị luật sư đã từng đi ngoại quốc nhiều lần. Ấy thế mà lần này vô ý để mắc phải cái chuyện đáng chê trách như thế đó! Âu cũng là một bài học để đời cho mình vậy./
California, Tháng 11 Năm 2009
Đoàn Thanh Liêm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.