Hôm nay,  

Sau Đại Hội 18 Tại Bắc Kinh

14/11/201200:00:00(Xem: 10639)
Trung Quốc và thách thức thay đổi mô hình kinh tế

Duy trì ổn định xã hội và xây dựng mô hình kinh tế lấy tiêu thụ nội địa làm động lực tăng trưởng: đó là thách thức lớn chờ đợi ban lãnh đạo mới của Trung Quốc. Bài toán càng nan giải khi các nhà cầm quyền bị hệ thống chính trị bó tay. Trong bài diễn văn khai mạc Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18, ngày 08/11/2012 chủ tịch Hồ Cẩm Đào đề ra mục tiêu cho thế hệ lãnh đạo kế tiếp nhân thu nhập bình quân đầu người lên gấp đôi từ nay cho đến năm 2020. Mục tiêu đó chỉ có thể hoàn thành với điều kiện trong 8 năm sắp tới, Trung Quốc liên tục duy trì tỷ lệ tăng trưởng trên 10% như thành tích đã đạt được trong 2 nhiệm kỳ vừa qua dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Cẩm Đào và thủ tướng Ôn Gia Bảo. Nhờ thế mà nước đông dân nhất địa cầu đã qua mặt được Anh Quốc, Đức và Nhật Bản để trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới, chỉ thua có Hoa Kỳ. Tuy vậy, nhưng nếu tính theo thu nhập bình quân đầu người, thì Trung Quốc chỉ đứng hàng thứ 121, tương đương với Thái Lan.

Đảng Cộng sản Trung Quốc đang họp đại hội, chuẩn bị đưa một thế hệ lãnh đạo mới lên cầm quyền trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế đang chựng lại. Do tác động của khủng hoảng châu Âu và khó khăn kinh tế toàn cầu, GDP của Trung Quốc trong năm nay không tăng quá 7,5%. Thành tích này quá kém cỏi để cho phép Bắc Kinh bảo đảm công việc làm cho người dân, tránh gây bất ổn trong xã hội. Bản thân ông Hồ Cẩm Đào nhìn nhận là Trung Quốc cần nhanh chóng thay đổi mô hình kinh tế. Đây là dấu hiệu cho thấy đã đến lúc Bắc Kinh cần xét lại mô hình phát triển vốn dựa vào xuất khẩu, đầu tư quá tải và chính sách tiền tệ quá dễ dãi.

Nhờ lấy xuất khẩu làm chủ đạo mà kinh tế Trung Quốc trong một thập niên qua (2002-2012) đã duy trì tỷ lệ tăng trưởng trung bình là 10% một năm. Thặng dư cán cân thương mại luôn nghiêng về phía Trung Quốc. Bắc Kinh đang làm chủ một khoản dự trữ ngoại tệ trên 3000 tỷ đô la hơn hẳn cả so với tích lũy của Nhật Bản. Lại cũng Trung Quốc là địa điểm hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào bậc nhất của thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà Trung Quốc được mệnh danh là «cơ xưởng sản xuất lớn nhất toàn cầu».

Hoa Kỳ, Nhật Bản và Châu Âu trở thành những đối tác thương mại hàng đầu của Trung Quốc. Vấn đề đặt ra là cả ba cột trụ kinh tế toàn cầu đó hiện đang gặp khó khăn, đặc biệt là kể từ sau khủng hoảng 2008-2009, và không còn khả năng tiêu thụ hàng Trung Quốc với nhịp độ như ở vào thời «hoàng kim .

Ngoại tệ rót vào Trung Quốc trở nên khan hiếm hơn. Trung Quốc vẫn có những lợi thế nhất định, nhưng không còn là nơi có nhân công rẻ so với các nước chậm phát triển hơn. Không có gì chắc chắn là Bắc Kinh bảo đảm được tăng trưởng kinh tế ở ngưỡng 8%, mức tối thiểu để tạo công việc làm cho đội ngũ lao động quá dồi dào.

Đó là những thực tế mà các nhà lãnh đạo Bắc Kinh thuộc thế hệ 5 – với hai gương mặt nổi bật là các ông Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường sẽ phải đối mặt.

Bản thân Trung Quốc từ 5 năm nay đã ý thức được điều này và đã tiến hành một loạt các biện pháp cải tổ: nâng cao mãi lực cho người dân, dùng sức tiêu thụ nội địa làm động lực tăng trưởng. Nhiệm vụ đó chưa hoàn thành và sẽ được chuyển giao lại cho thế hệ lãnh đạo kế tiếp.

Thành công hay thất bại của tiến trình cải tổ đó được coi là mang tính định đoạt đối với sự tồn tại của Đảng và Nhà nước Trung Quốc. Tất cả vấn đề đặt ra là liệu hai người đứng đầu guồng máy chính trị Trung Quốc tương lai, các ông Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường, có hoàn thành trọng trách đó hay không.

Hai ngày trước Đại hội Đảng báo Thanh Niên Trung Quốc số đề ngày 06/11/2012 công bố một cuộc thăm dò dư luận được thực hiện qua mạng internet. Theo đó 75,4% những người được tham khảo ý kiến cho rằng, bất bình đẳng về thu nhập là một mối đe dọa đối với tương lai đất nước. Trong lúc chỉ có 31,3% quan tâm đến việc tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bị chựng lại.

Trong mắt gần 70% những người được hỏi, cải thiện hệ thống y tế được coi là một ưu tiên hàng đầu; 60% kỳ vọng an toàn thực phẩm được cải thiện và 62,8% mong muốn hệ thống giáo dục được nâng cấp.

Nhìn lại quá trình điều hành đất nước sau 2 nhiệm kỳ sắp khép lại của cặp bài trùng Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo, thuộc thế hệ lãnh đạo thứ 4 của Trung Quốc, chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa từ Hoa Kỳ không phủ nhận những thành tựu đã đạt được cho dù cách biệt giàu nghèo và những bất công quá lớn là một hiểm họa đe dọa trực tiếp đến ổn định xã hội của một quốc gia với gần 1,5 tỷ dân.

Nguyên Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ rằng có, ở hai mặt chìm và nổi, với cái vị chua ngọt, mà chua nhiều hơn ngọt, thậm chí hơi đắng. Năm 2002 là khi ông Hồ Cẩm Đào lên làm Tổng bí thư rồi Chủ tịch Nhà nước, tổng sản lượng kinh tế của Trung Quốc được ước tính là 1.450 tỷ đô la, tương đương với của Anh Quốc. Tính theo đầu người thì lợi tức một người dân Trung Quốc là khoảng 1.100 đô la. Mười năm sau, với đà tăng trưởng trung bình là 10% một năm, Trung Quốc lần lượt vượt qua kinh tế Anh, Đức, Nhật. Thế hệ thể tư để lại một nền kinh tế có tổng sản lượng khoảng 7 400 tỷ đô la. Trung Quốc là nền kinh tế hàng thứ nhì thế giới, với GDP cao gấp năm lần so với di sản họ nhận lãnh được từ thế hệ Giang Trạch Dân, Lý Bằng và Chu Dung Cơ. Tính trung bình thì mỗi người dân đã thấy lợi tức từ 1.100 đô ma lên tới 5.400 đô la. Đó là mặt nổi và có vẻ ngọt ngào của di sản kinh tế đang được bàn giao. Cái mặt chìm là mấy con số vừa nói chỉ là bình quân và không phản ảnh những dị biệt rất lớn ở bên trong. Các nước tân hưng Đông Á đều có thể đạt mức tăng trưởng rất cao vào giai đoạn khởi phát hay cất cánh. Nhưng không quốc gia nào lại có mức dị biệt hay tỷ lệ bất công cao như ở Trung Quốc. Khi Hồ Cẩm Đào rồi Ôn Gia Bảo cùng nói rằng kinh tế Trung Quốc thiếu công bằng, thiếu cân đối, không phối hợp và không bền vững, họ đều ý thức được sự khác biệt lợi tức quá lớn giữa các thành phần dân chúng và các địa phương. Mà khác với ngày xưa, ngày nay, người dân đã có thông tin và ý thức được sự khác biệt và bất công đó nên đã phản ứng.


RFI: Đấy là cái phần chua của vị chua ngọt. Nhưng anh còn nói đến vị đắng. Xin anh trình bày cho một số ví dụ cụ thể.

Nguyên Xuân Nghĩa: Vì địa dư hình thể, lãnh thổ bát ngát của Trung Quốc có ba khu vực khác nhau. Miền Đông ở vùng duyên hải gồm có 15 tỉnh thì tương đối trù phú. Miền Tây là 11 tỉnh và khu tự trị hành chính của các sắc dân thiểu số thì nghèo hơn nhiều. Khu vực thứ ba là vùng phiên trấn hoang vu từ Tứ Xuyên lên Cao nguyên Thanh-Tạng, Tân Cương, Nội Mông và ba tỉnh Đông Bắc thuộc đất Mãn Châu cũ thì còn nghèo khốn và lạc hậu hơn vậy. Chiến lược Đặng Tiểu Bình đã giúp các tỉnh miền Đông phát triển mạnh nhất vì hướng ra ngoài, nhưng lại bỏ quên các tỉnh ở bên trong.

Năm 1999, thế hệ lãnh đạo thứ ba là Chủ tịch Giang Trạch Dân và thủ tướng Chu Dung Cơ đã muốn điều chỉnh đó với kế hoạch "Phát triển Địa khu Tây bộ" nhằm gia tăng đầu tư vào sáu tỉnh và năm khu tự trị hành chánh bị khóa trong lục địa ở miền Tây mà không thành. Sau năm 2002, thế hệ thứ tư cũng đòi khôi phục ba tỉnh Đông Bắc và một phần của Nội Mông trong kế hoạch gọi là "Chấn Hưng Đông Bắc Lão Công Nghiệp Cơ Địa", rồi kế hoạch phát triển sáu tỉnh thuộc khu vực Trung bộ gọi là "Trung Bộ Quật Khởi Kế Hoạch", mà cũng không xong.

Tình trạng bất công và không cân đối khiến Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo đều nói đến yêu cầu chuyển hướng từ «lượng» sang «phẩm» và cải cách cơ chế cho linh động hơn. Họ trù tính như vậy từ sau Đại hội 17 vào năm 2007 mà cũng thất bại.

RFI : Thưa anh vì sao lại thất bại khi mà trong giai đoạn ấy kinh tế Trung Quốc đã qua mặt nước Đức rồi nước Nhật ?

Nguyên Xuân Nghĩa: Trung Quốc dự tính là không tìm tốc độ tăng trưởng cao cỡ 9-10% mà nhắm vào phẩm chất của tăng trưởng để điều chỉnh những khác biệt chúng ta vừa nói. Nhưng, nhiều đảng bộ địa phương lại vẫn muốn tăng trưởng bằng mọi giá và cản trở chính sách này. Đã vậy, vụ khủng hoảng tài chính và suy trầm toàn cầu năm 2008-2009 khiến Bắc Kinh lo sợ rằng sản xuất sút giảm vì thị trường xuất cảng suy sụp và nạn thất nghiệp gia tăng sẽ gây ra động loạn. Vì vậy, tháng 11 năm 2008, Bắc Kinh ào ạt tăng chi ngân sách và bơm thêm tín dụng qua hệ thống ngân hàng để kích thích kinh tế.

Kết quả là kinh tế có tăng trưởng thật và vượt qua Nhật Bản vào năm 2010. Nhưng hệ quả là một lượng tín dụng khổng lồ, tương đương với mấy ngàn tỷ đô la, được bơm vào kinh tế, qua doanh nghiệp nhà nước và các cơ sở kinh doanh có quan hệ tốt với viên chức địa phương, đã thổi lên bong bóng đầu cơ về địa ốc và thương phẩm.

Một hậu quả khác là các địa phương thực hiện nhiều dự án có giá trị kinh tế rất thấp mà vẫn được ngân sách tài trợ, miễn là tạo ra công ăn việc làm. Khi đã hết ngân sách thì các chính quyền địa phương lập ra công ty đầu tư của địa phương để vay tiền ngân hàng của nhà nước ở địa phương nên đã chất lên một núi nợ cực lớn. Mà lớn chừng nào thì không ai biết, kể từ Ngân hàng Trung ương đến các cơ quan quản lý của nhà nước. Nghĩa là Trung Quốc đang có một núi nợ vĩ đại có thể sụp đổ bất cứ lúc nào với hậu quả còn nguy ngập hơn những gì đã thấy tại Nhật Bản từ hơn hai chục năm trước, rồi Âu Châu và Hoa Kỳ như người ta đã thấy từ bốn năm qua.

RFI: Dù sao thì Trung Quốc cũng nắm trong tay một khoản dự trữ ngoại tệ trị giá hơn ba ngàn tỷ đô la mà một phần ba là công khố phiếu của Mỹ, tức là họ đang là một chủ nợ của Hoa Kỳ. Thế thì di sản kinh tế này là mạnh hay yếu?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chúng ta có nhiều cách nhìn và đánh giá cái sức mạnh biểu kiến này. Thứ nhất, so với cái núi nợ vĩ đại có thể lên tới hơn phân nửa và thậm chí 75% của tổng sản lượng, tức là gần năm ngàn tỷ đô la thì hơn ba ngàn tỷ dự trữ sẽ không đủ chuộc nợ khi núi lở.

- Thứ hai, trong luồng giao dịch tài chính với bên ngoài, tính đến tháng 6/2012 Trung Quốc đạt mức thặng dư tương đương với khoảng 1.750 tỷ đô la. Tức là kết số của tài sản họ đầu tư ra ngoài khấu trừ phần đầu tư của ngoại quốc vào thị trường của họ.

Nhưng khi đầu tư ra ngoài, như mua công khố phiếu để làm chủ nợ của Mỹ, thì họ được một phân lời rất thấp trong khi phải trả một mức doanh lợi rất cao cho nguồn đầu tư của nước ngoài vào thị trường Trung Quốc. Nhìn vào tương quan trao đổi bất cân xứng ấy, Trung Quốc vẫn là một xứ lạc hậu chứ không mạnh như người ta tưởng. Sau cùng, cũng phải nói rằng trong hoàn cảnh hiện tại, với nguy cơ đình trệ toàn cầu, kinh tế Trung Quốc khó đạt mức tăng trưởng trên 8% là số tối thiểu cần thiết để tránh động loạn.

RFI : Để kết luận, anh cho rằng di sản kinh tế mà thế hệ lãnh đạo thứ năm sẽ tiếp nhận sau này thật ra chẳng có gì là sáng sủa, có phải như vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa : Tôi nghĩ rằng di sản đó không sáng sủa mà cực kỳ đen tối. Đấy không là một di sản kinh tế mà là một di sản chính trị, một hệ thống chính trị không cho phép chuyển hướng và cải cách dù lãnh đạo đã thấy ra vấn đề từ cả chục năm trước.

RFI: Xin cảm ơn chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa.

Nhà sử học chuyên nghiên cứu về Trung Quốc nổi tiếng của Pháp, giáo sư François Godement từng ví guồng máy lãnh đạo của Bắc Kinh như một chiếc «hộp đen»: hiện tại, ngoài hai ông Tập Cận Bình và Lý Khắc Cương, chắc chắn là sẽ tham gia Ban thường vụ bộ chính trị, 5 hoặc 7 ghế khác trong tổ chức này chưa biết sẽ về tay ai. Theo những nguồn tin mới nhất có khả năng phe cải cách sẽ bị lép vế.

Vài giờ trước khi Đại hội 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc khép lại, một số các nhà quan sát của phương Tây cho rằng đại hội lần này diễn ra vào thời điểm nhu cầu cải tổ cả về phương diện chính trị lẫn kinh tế đang trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Không phải tình cờ mà tuần trước, Hoàn Cầu Thời Báo công bố một cuộc thăm dò dư luận theo đó, 81,4% người được hỏi mong muốn Bắc Kinh cải tổ guồng máy chính trị, cho dù là có đến 69,7% muốn sự thay đổi đó phải được thực hiện từng bước.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.