Hôm nay,  

Nhơn Đọc Bài Tháng Tư 2013 Để Nhớ Tháng Tư 1975

25/05/201300:00:00(Xem: 6053)
Cỏ May được đọc qua bài viết này do một ông bạn cao niên từ Montréal, Canada, nơi ông cư ngụ, gởi cho. Ông vốn là một nhà khoa học, trước 75, giảng dạy Thổ nhưỡng tại Đại Học Khoa học Sài gòn, và còn làm chuyên viên nông nghiệp cho Liên Hiệp Quốc cho tới ngày hưu trí ở luôn tại Montréal. Bài này, không thấy tên tác giả nhưng tác giả là một Thầy thuốc. Và không phải là ông bạn của mình.

Mình gọi "Thấy thuốc" (Médecin). Gọi theo chữ nghĩa là " Y sĩ ". Như tác giả viết. Cách gọi này là đúng nhưng người đời thường gọi, mà ai cũng hiểu, đó là "Bác sĩ" (Docteur). Có lần trong câu chuyện, Cỏ May gọi "Thầy thuốc", bị đính chánh vì để tránh bị hiểu lầm với "Đông y sĩ " hay thầy cạo gió như đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ở Hà nội. Mà ở Huê kỳ có "Bác sĩ Đông y" kia mà.

Đúng là "Sự thật ở bên này dảy Pyrénées không còn là sự thật ở bên kia dãy Pyrénées nữa". Ở Pháp, chỉ có Tiến sĩ Y khoa mới được gọi là "Bác sĩ" như Bác sĩ Vidoux, Bác sĩ Titout,... (Docteur Vidoux, Docteur Titout,...). Nếu Bác sĩ Vidoux là Bác sĩ về ngành Thú y cũng được. Cũng cùng là Docteur nhưng về các nghành khác như Toán, Vật lý, Văn chương,...Chương trình học dài hơn và công trình nghiên cứu mất nhiều thì giờ hơn, nhưng không ai gọi Docteur... (Tiến sĩ...) như ở Huê kỳ.

Tác giả có ý định xin đi tỵ nạn ở Úc, nhưng lại chọn định cư ở Montréal. Và sự chọn lựa này đã không làm cho tác giả hối hận vì không đi Úc.

Sài gòn, một thời để nhớ

Ngày nay, tác giả và gia đình trở thành dân Canadien, Québecois. Nhưng ông vẫn không làm sao quên bẳng được ông là người việt nam và là người sài gòn!

35 năm dài trôi qua để ông ghi nhận bước đi của thời gian, từ Tháng Tư 1975 đến tháng Tư 2013. Ông nhớ lại chuyến hải hành gian nan của 35 năm trước và ông ý thức rỏ lý do ông đã liều mạng là để tìm Tự do. Ngày nay ông Cảm ơn Canada, Cảm ơn Montréal, Cảm ơn Québec!

Đẹp quá!

Những chi tiết này đã làm cho Cỏ May nhớ lại mình cũng là kẻ vượt biển tới Mã-lai, vào ngày Tết – năm đó nhuần, ngày cuối năm là 29 rồi mùng một - lên đất liền, sau cùng chánh quyền mã-lai cho di chuyển tới ở trong một Nhà Hội của làng gần đảo Poulau Besar, nơi tác giả ở. Lúc ở đây, chúng tôi nghe ông Đại diện Cao Ủy Tỵ nạn, người Thụy điển, cho biết ở ngoài đão Poulau Bésar vừa có người việt nam tới. Ở đó có nước ngọt tốt hơn nước giếng ở đây.

Xin nhắc lại tác giả bài “Canada, Québec và Tôi – Tháng Tư 2013, để nhớ lại Tháng Tư 1975” đang định cư tại Montréal và ngày nay là dân canadien, québecois, nhưng ông vẫn không quên Sài gòn.

Không riêng ông Thầy thuốc này, nhiều người không phải sanh đẻ tại Sài gòn, hay chỉ ở Sài gòn trong một thời gian ngắn, rất ngắn, cũng vẫn nhận mình là người sài gòn. Sài gòn như có cái gì để làm cho họ trồng cây si vậy? Có người nhớ lại những kỷ niệm ở Sài gòn xưa viết:

“Sài gòn một thuở là hòn Ngọc Viển đông, một Paris lắp lánh khắp cõi Châu Á. Vậy mà ngày nay, Sài gòn lại bị mang một cái tên quái gở không một người sài gòn nào muốn thừa nhận. Người ta vẫn gọi là Sài gòn để xác nhận mình là người sài gòn mà không bị xấu hổ*. Một thành phố mải mải vẫn mang tên là Sài gòn. Sài gòn của muôn đời. Sài gòn trong trái tim của người đang sống tại đó hay đang lưu lạc khắp năm châu thế giới … Người sài gòn không nhất thiết phải sinh ra tại đó, có bao nhiêu đời Ông Bà Cha Mẹ từng lập nghiệp lâu năm bền vững. Một người, bất cứ ai, cũng có thể nhận chính mình là dân sài gòn, dù chỉ ở một ngày, một tuần hay một tháng, một năm. Chỉ sống một ngày ở Sài gòn nhưng yêu Sài gòn mải mải và mang Sài gòn ở trong tim, như một phần của thân xác, linh hồn của mình. Chỉ như vậy thôi, người ta có thể ngẩng cao đầu, tự hào vỗ ngực tuyên xưng tôi chính là dân sài gòn. Tóm lại Sài gòn là của tất cả mọi người suốt dãy giang san từ Bắc qua Trung tới Nam. Sài gòn như một Hiền mẫu dang rộng vòng tay ôm thương yêu quảng đại những con người tứ xứ, không phân biệt Bắc, Trung, Nam và ngay cả người ngoại quốc nữa. Một người Pháp sanh ra ở Paris. Một ngày nào đó, anh tới Sài gòn và tuyên bố từ nay tôi không còn là dân Paris nữa. Tôi là dân sài gòn và ở lại đây cho tới ngày cuối cùng. Vậy là dân sài gòn gọi ngay anh Tây này là “anh Hai”, “anh Tư” và có thể thêm “anh Hai trắng” hoặc “anh Tư tóc vàng” vừa cho đậm đà, vừa để dể phân biệt khi nói chuyện với người khác về anh này.(Đêm Sài gòn Ngọc ngà dỉ vảng - Một thời để nhớ - không thấy tên tác giả)

Sài gòn là như vậy đó. Ai cũng biết. Ai cũng thương.

Bến Ninh kiều ngày đưa Ông Táo

Ông Thầy thuốc Québecois ở Sài gòn được 13 năm và ở Québec nay được 35 năm, tức từ lúc ông bỏ Sài gòn vượt biển năm 1978. Cỏ May bỏ Sài gòn đi xuống cần Thơ vào ngày đưa Ông Táo, tháng 2 năm 1978, và Chợ Cần thơ bán Chợ Tết. Người ta thường nói ngày 23, ngày 14 và ngày mùng 5 nên cử kiêng vì đó là 3 ngày xấu trong tháng. Mùng 5, 14, 23, đi sao, về vậy, không ra chuyện gì. Lúc đi chỉ nghĩ đó là lúc Chợ Tết, người đi đông đảo dễ trà trộn làm như người về quê ăn Tết. Điểm hẹn của chúng tôi là Bến Ninh kiều, ngay tượng Hồ Chí Minh. Chúng tôi lần lượt xuống ghe nhỏ đậu tại bến Ninh kiều chờ qua trưa ngày hôm sau sẽ đi dọc theo sông Hậu hướng ra cửa biển trong lúc đó tàu lớn từ bên Long Xuyên qua, hai ghe nhỏ cặp tàu lớn, người leo qua tàu lớn, bỏ ghe nhỏ lại thù lao cho người lái. Tàu lớn, hai bên hông kẻ “Công Ty Vận tải Đường thủy” do hợp đồng chở đá từ Biên hòa cung cấp cho Tỉnh Trà vinh xây bến cá.

Khúc sông gần biển, nước ròng chảy rất mau. Tàu chúng tôi đi tới ngã ba Đại Ngãi bị mắc cạn nằm ì ở đó. Cả tàu hơn trăm người đều lên ruột. Con ít tự nhiên giữ im phắng phắc. Ai cũng nghĩ chờ sáng ra hay đêm gặp tàu tuần tiểu của vc để nạp mạng trọn. Tới 5 giờ sáng, chiếc xà lang đậu phìa bên kia sông, hướng từ Bạc liêu lên, pha đèn sáng trưng và bắt đầu di chuyển. Anh thuyền trưởng của chúng tôi là dân đi biển nhà nghề nên không nhiều kinh nghiệm về đường sông. Còn ông Phạm văn Nhứt, thuyền trưởng lái tàu từ mấy tháng nay thì lên bờ rồi. Ông là người đầy kinh nghiệm vừa đường biển, vừa đường sông. Ông không muốn đi ra nước ngoài. Ông nhận lời giúp chúng tôi vượt biển vì thương chúng tôi mà thôi. Ông là ông già mà anh em làm việc trên tàu ai cũng thương, cũng kính trọng. Con người của biển cả, của sóng gió nên dể thông cảm với mọi người, mọi lứa tuổi, mọi thành phần xã hội. Khi ông rời tàu bước lên bờ, anh em, kẻ kêu bác, người kêu chú, kêu anh, đều nhìn ông và rơi nước mắt. Vì biết từ giả ông là không biết ngày nào có thể gặp lại ông. Khi tới Mã lai, anh em nhắc ông mỗi khi gặp phải chuyện rắc rối vì ông có cách giải quyết vấn đề rất giản dị mà làm mọi người đều hài lòng.


Ngày đầu tìên xuống tàu, giới thiệu với ông thủy thủ đoàn xong, ông liền hỏi:

- Ở đây có ai tên Cư không? Nếu có, tôi lên bờ ngay vì không làm việc chung được.

- Thưa không. Mà tại sao vậy, bác?

- Tôi tên Nhứt nên kỵ với tên Cư, chớ sao.

Tới đây vài người hiểu ra, cười lên. Chỉ còn anh Trung sĩ Hải quân phụ máy, gốc dân Hà nội, không hiểu nên hỏi lại. Mấy anh hiểu, bảo hãy nói ngược lại “Nhứt Cư” thì hiểu ngay. Lẩm bẩm vài giây, Trung sĩ Hải quân hiểu được, phá lên cười sặc sụa như chưa bao giờ được cười một trận thoải mái như vậy. Từ đó, anh dành hết thì giờ phục vụ sư phụ.

Quả thật, nước lớn, tàu nổi lên. Chiếc xà lang kia cũng vừa chạy ngang qua. Thợ máy cho máy chạy. Thuyền trưởng lên phòng lái cho tàu từ từ chạy ra cửa biển. Đi ngang qua đốn Đại Ngãi, trước kia là căn cứ Mỹ, lính vc đang làm lễ chào cờ sáng thứ hai. Tàu lặng lẽ lướt sóng như dân vận tải đường thủy làm ăn lương thiện theo chế độ xã hội chủ nghĩa như đã được học tập kỳ.

Thỉnh thoảng có ghe nhỏ chở vài tên vc bám theo tàu để khỏi chạy máy đuôi tôm đở hao dầu. Trên tàu có vài thanh niên gốc bắc, mặc áo màu cứt ngựa giống như bộ đội, tiến tới ghe nhỏ bảo hãy buông ra tránh rủi ro. Ghe nhỏ vội buông ra, chạy chậm lại sau tàu.

Ra tới cửa biển, anh thuyền trưởng cẩn thận tránh bãi lầy và lưới cá. Lối 10 giờ sáng, vài thanh niên trong thủy thủ đoàn, xách cái xô nhựa đi lần theo bà con vừa nằm, vừa ngồi la liệt trong hầm tàu để hỏi ai cần ói không? Dân vượt biển bắt đầu say sóng vì tàu đã ra khỏi đất liền khá xa. Tới vùng biển sâu nên tàu bắt đầu nhảy sóng.

Tới gần sáng hôm sau, Thuyền trưởng kêu chỉ giàn đèn sáng trước mặt và nói “Thằng lái tàu ngủ quên nên chạy đả đời, tàu lại quay về Côn Sơn. Thôi bà con mình sửa soạn lên bờ gặp lại đồng chí”. Ai cũng tỉnh người, hết say sóng. Thấy vậy, anh Thuyền trưởng bật cười và nói “Nói chơi, chớ tàu đã qua khỏi Côn Sơn xa rồi. Đó là đèn của giàn khoan dầu ở ngoài khơi thuộc hải phận quốc tế”.

Lúc trời trong, mây tạnh, quả thật màu xanh của trời và màu xanh của biển làm thành một màu. Nhưng khi nhìn biển trong giấy lát sẽ thấy màu xanh của biển bắt đầu đổi ra màu từ tím, tím xẩm rồi đen. Khi thấy biển màu đen là lúc người nhìn biển bắt đầu ói. Nhờ đó mới hiểu cụ thể thế nào là “biển đen ngòm” như trong văn chương thường viết.

Trẻ con mã-lai

Tàu rướn lên cạn nằm chình ình đó. Trước mặt như có một dải cây cối lúp xúp dưới những ngọn đèn điện màu đỏ cao chói vói cho phi cơ biết mà tránh. Chúng tôi thành công cuộc hải hành vì Thuyền trưởng bảo cứ nhắm hướng Mã-lai đâm tới. Singapour không cho vào nên tránh hướng đó. Mà không thành công sao được? Bây giờ có muốn đi nữa cũng không được vì tàu mắc cạn cứng ngắt không nhút nhít nổi.

Một thanh niên gốc hoa trên tàu nhảy xuống lội lên bờ. Cảnh sát chụp, hỏi đi đâu? Anh ta trả lời tiếng Tàu, bị cảnh sát mã-lai thoi cho mấy thoi. Anh trả lời tiếng Anh, cảnh sát buông ra và bảo hãy ở yên đó, sáng ra giải quyết.

Trưa hôm sau, người tàu Mả-lai mang thức ăn tới ủy lạo và hỏi thu mua vàng. Chúng tôi vội bày thức ăn ra trước mủi tàu cúng Têt. Cùng hướng về đất nước khấn vái và lạy ba lạy. Không ai có thể cầm được nước mắt.

Vẫn ở trên tàu vi đây là khu du lịch. Qua hôm sau, chánh quyền Mã-lai tới với Đại diện Hồng thập tự đưa chúng tôi vào ở trong một trường học vì học sinh đang nghỉ Tết. Lập danh sách xong, chúng tôi được thừa nhận người tỵ nạn chánh trị.

Vài ngày sau, chúng tôi được đưa về một nhà hội, bên kia sông là thành phố Mersing. Nơi đây không có rào, nhưng chúng tôi không được đi ra khỏi quá 20m. Nggười canh giử chúng tôi là một thanh niên mã-lai với khẩu súng săn 2 nòng có đạn.

Đêm chúng tôi thường nghe tiếng súng. Một hôm, thanh niên mã-lai này kêu đám thanh niên trong trại báo tin hắn ta đã bắn đươc con chó thường lui tới trại. Mấy thanh niên của chúng tôi xin con chó để làm tiệc cầy. OK. Thế là anh em đem “cờ tây” ra hạ. Không ai biết mổ, bèn cầu cứu bác sĩ Ph. gốc Hà nội (Gia đình định cư ở Lausanne, Thụy sĩ. Trong nhóm chứng tôi có 3 bác sĩ, 2 dược sĩ, 2 y tá, giáo chức, luật sư không ích lợi trong lúc này). Quả thật đúng là tay nhà nghề vì ông là bác sĩ giải phẩu của Chợ rẩy.

Sáng hôm sau, thanh niên Mã-lai trở lại tìm con chó để đem đi chôn. Anh em chỉ con chó đã làm thịt, khỏi đem chôn. Cậu Mã-lai nhìn khối thịt chó bèn ngã xỉu. Lúc tỉnh dậy, mấy thanh niên Việt nam nhắc lại hôm qua anh đã đồng ý cho chúng tôi kia mà. Anh ta lắc đầu vội chạy đi. Giờ sau, anh ta trở lại với ông Quận trưởng. Mọi người mới biết sự thật. Anh này không hiểu tiếng Anh ngoài chữ tomorrow nên nghe anh em xin con chó để ngày mai làm thịt, là OK vì nghe có tomorrow.

Vui vẻ cả làng. Nhưng chúng tôi bị phạt phải lau rửa thật sạch nhà hội, rửa cả ngoài sân và chung quanh miệng giếng.

Chúng tôi nói với ông Quận là chúng tôi tuân lệnh cấm, không ăn thịt heo ở đây. Ô Quận ôm đầu kêu trời “Con chó cũng như con heo vậy, các ông, các bà ơi!”. Chúng tôi đề nghị ông lập danh sách những con gì không được phép ăn để chúng tôi tránh.

Sáng hôm sau, gần như tất cả trẻ con học sinh của ngôi trường bên cạnh đều túa ra đứng bên hàng rào nhìn về phía chúng tôi, nói to “You eat dog death!!” cho tới giờ vào lớp. Nhiều đứa lộ ra vẻ mặt như sợ những người eat dog death vậy.

Trong nhóm chúng tôi, phần lớn đi Mỹ, Canada. Có 4 người đi Úc. Những người đi Pháp được đi sớm.

Cỏ May từ khi làm giấy tờ tỵ nạn chỉ có một nguyện vọng là xin đi Úc vì Úc nằm trong vùng khí hậu thái bình dương, gần Việt nam, sẽ ít bở ngở trong thời gian đầu tới và ngày nào đó có về Sài gòn, mình cũng đi nhanh hơn. Điều quan trọng hơn là dân Úc lè phè, mình dể hội nhập vào nền văn hóa này. Ở Mỹ con người ta làm việc quần quật, mình sợ chạy theo không kịp. Ở Âu châu, nhứt là Pháp, đời sống khó khăn.

Khi phái đoàn Úc tới, mình xin ghi tên thì mới biết ông Tây đã nhận rồi. Và chỉ còn một tuần nữa là đi. Phái đoàn Úc khuyên không nên thay đổi.

Thế là định mệnh đã an bài. Ngày nay chỉ không biết lúc nào sẽ về được Sài gòn đi một vòng thoải mái nhìn lại cảnh cũ. Người xưa, chắc không còn mấy ai?

“Hồn ở đâu bây giờ?”

Nguyễn thị Cỏ May

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.