Hôm nay,  

Sự Thất Vọng Về Bản Hiến Pháp Mới Của Việt Nam

12/11/201300:00:00(Xem: 6100)
Đặng Khương
(Chuyển sang Việt ngữ do Đặng Khương, CTV Phía Trước -- từ bản Anh văn của Đỗ Kim Thêm, The Diplomat.)

Cách thức quản trị yếu kém ở Việt Nam là hậu quả của hệ thống quản trị và cấu trúc hiến pháp có nhiều nhược điểm, và hệ thống này cần phải thay đổi một cách căn bản nhất. Nhiều cuộc thảo luận đã tập trung vào các lộ trình dân chủ, cơ chế thị trường không theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền [thượng tôn pháp luật] và xã hội dân sự. Thách thức trước mặt hiện rất lớn, và bất kỳ sự chuyển đổi nào cũng sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Các nhà quan sát hiện đang chờ đợi xem liệu có điều gì chuyển biến trong giới lãnh đạo cấp cao trong ĐCSVN hay không.

Trong một báo cáo mới nhất vào tháng mười 2013, ĐCSVN đã dập tắt hoàn toàn sự lạc quan về bản hiến pháp mới mà dư luận đang kỳ vọng. ĐCSVN vẫn cương quyết không nhượng bộ quyền lực của họ, và bất kỳ sự cải cách nào không có vai trò của ĐCSVN thì họ đều không chấp nhận. Giấc mơ về một cuộc cải cách dường như đã trở thành không thể. Quốc hội sẽ phê chuẩn một bản hiến pháp mới trong tháng Mười một này, và bản hiến pháp mới sẽ do ĐCSVN áp đặt lên toàn xã hội.

Cuộc thảo luận về hiến pháp mới đã được đưa từ các cấp lãnh đạo ở trên xuống. Kết quả chắc chắn sẽ làm công chúng thất vọng vì mô hình cũ vẫn không có gì thay đổi, đặc biệt là Điều 4 vẫn tiếp tục khẳng định sự độc quyền lãnh đạo của ĐCSVN. Hiến pháp mới cũng sẽ có nhiều lỗ hổng để ĐCSVN tùy tiện giải thích theo cách họ muốn.

Trong khi đó, đối với các nhà kinh tế thì những câu hỏi được đặt ra là: Liệu bản Hiến pháp mới có thể giải cứu nền kinh tế hay không? Và đặc biệt là làm thế nào để các kinh tế gia thực hiện được điều đó?

Nhiều người đồng ý rằng kinh tế vĩ mô của Việt Nam đạt được những thành tích rất ấn tượng sau thời gian Đổi mới bắt đầu vào năm 1989. Cho đến năm 2009 thì Việt Nam đã có một số thành công khá nổi bật. Không giống như các nước ở Đông Á đã đi tiên phong trong cải cách, Việt Nam lại có lợi thế của một nước đến sau trong đó Việt Nam đã tăng tốc quá trình chuyển đổi nhằm bắt kịp với thế giới và kích hoạt kinh tế thông qua những bí quyết của nước ngoài và huy động vốn. Ngoài ra, các nhà tài trợ quốc tế và các nhà đầu tư nước ngoài đã hỗ trợ quá trình phát triển ở Việt Nam.

Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng đã chậm lại đáng kể từ năm 2011, và tình hình cho thấy chỉ số tăng trưởng vẫn tiếp tục trì trệ trong những tháng tới. Việt Nam đã phải vật lộn với những thách thức trong việc tái cân bằng lại các cấu trúc cơ bản nhất. Tương tự như Trung Quốc, nền kinh tế đang gặp khó khăn do những bất ổn, sự mất cân bằng và thiếu tính bền vững, cộng thêm nhiều chi phí xã hội cũng như các vấn đề về môi trường. Xuất khẩu và kinh tế sản xuất hiện đang sút kém đáng kể.


Tầng lớp lãnh đạo cần phải đáp ứng tình hình này với một tầm nhìn mới để định hướng lại nền kinh tế trong bối cảnh bất ổn toàn cầu vẫn tiếp tục diễn ra. Tất nhiên, đầu tư phải tiếp tục là động lực chính cho sự phát triển và đổi mới kỹ thuật, cùng với vốn đầu tư nước ngoài để giúp phát triển ngành công nghiệp. Nhưng các nhà hoạch định chính sách cũng cần phải giải quyết hệ thống xơ cứng được gây ra không chỉ bởi các yếu tố bên ngoài và mang tính chu kỳ mà còn bởi sự mất cân bằng trong hệ thống nội bộ.

Về phần mình, chính phủ phải trấn an các nhà đầu tư rằng pháp quyền, tức thượng tôn pháp luật, sẽ được áp dụng triệt để. Chính phủ cũng phải nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục, chăm sóc sức khoẻ và an ninh, giúp nền kinh tế di chuyển lên chuỗi giá trị cao hơn. Đo lường chất lượng của sự đổi mới, cạnh tranh và các tổ chức độc lập sẽ đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề này.

Việt Nam không thể tái cân bằng trong ngày một ngày hai. Rõ ràng là doanh nghiệp nhà nước làm tăng thêm những rủi ro mang tính hệ thống và sẽ không rời bỏ thị trường, trong khi các nhóm lợi ích lại ngày càng cản trở các cải cách. Đây có lẽ là biểu hiện rõ nét về tình trạng trì trệ của các công cụ chính sách, và chừng nào mà ĐCSVN vẫn tỏ ra bất lực trong việc đối phó với tình hình, thì tăng trưởng vẫn sẽ tiếp tục ở mức dưới 5%. Các ảnh hưởng lâu dài sẽ khó đoán hơn.

Nói rộng hơn, mô hình chủ nghĩa tư bản nhà nước cùng với sự độc quyền lãnh đạo của một đảng luôn có những giới hạn nếu như chính phủ không sẵn sàng chấp nhận những cải cách chính trị cần thiết. Bộ Chính trị đã dành nhiều công sức trong việc duy trì nguyên trạng quyền lực của họ.

Và tương lai của xã hội dân sự ở Việt Nam? Liệu xã hội dân sự có thể đạt được những điều mà cả chính trị lẫn thị trường kinh tế không đạt được? Câu trả lời hiện nay vẫn chưa rõ, nhưng những điều mà phong trào xã hội dân sự có thể làm được là giúp người dân Việt Nam tìm tiếng nói của mình cũng như tạo điều kiện để công luận biết đến nhiều hơn.

Quyền lực của ĐCSVN không thể kéo dài mãi mãi và sự tham gia của nhiều người sẽ giúp tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi ôn hòa.
_________

Đỗ Kim Thêm là tác giả cuốn sách “Quan điểm của Phật giáo về các vấn đề hiện đại” (NXB Hồng Đức, Việt Nam, 2012).

© 2013 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thời gian còn làm Trung Sĩ Thông Dịch Viên trong Bộ Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ ở căn cứ Long Bình, Việt Nam vào năm 1969, trước khi tôi được chuyển sang phục vụ trong ngành phi hành của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, thì tôi có dịp tháp tùng phái đoàn Dân Sự Vụ (Civic Action) Lữ Đoàn 18 Quân Cảnh Hoa Kỳ (U.S. 18th Military Police Brigade) đi công tác ở Nhật Bản. Cũng trong chuyến công du này tôi đã phát hiện ra rằng, Nhật Bản là một quốc gia thực thi được chính sách phát triển kinh tế làm thịnh vượng cho toàn thể xã hội, và xóa bỏ được nhiều điều bất công...
Trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào, cần phải phân loại, xác định rõ ràng các loại “địch” để tìm cách đối phó hoặc vận động gây cảm tình làm đồng minh, tùy loại địch. Mọi người thường nói, “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng” là vậy.
Chỉ trong vòng 465 ngày (26/04/2024-17/01/2023) đảng CSVN đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng lãnh đạo thượng tầng chưa từng có trong lịch sử. Người duy nhất vẫn “vững như bàn thạch” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, nhưng ai sẽ thay ông Trọng để lãnh đạo đảng, sau Đại hội toàn quốc tháng 01 năm 2026 là câu hỏi chưa có câu trả lời...
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.