Hôm nay,  

Chuyện Cuối Năm: Nelson Mandela Có Bao Giờ Là Người Cộng Sản?

31/12/201300:00:00(Xem: 4529)
Khi còn là một sinh viên Luật ở tuổi 23, Mandela đã gia nhập tổ chức Nghị Hội Quốc Gia Nam Phi/ ANC (African Nation Congress), một tổ chức của người da đen tại Nam Phi nhằm chống lại nạn phân biệt chủng tộc (apartheid) được áp đặt từ nhiều thập niên trước nhằm tước đoạt hết quyền căn bản làm người của những người da đen, da màu nói chung, trong bối cảnh của một đất nước vốn chỉ có trên 10% dân số là người da trắng nhưng lại sở hữu trên 90% đất đai và nguồn lợi quốc gia.

Dù là một luật sư thành đạt có văn phòng đầu tiên của người da đen tại thủ đô Johannesburg, Mandela quyết định dấn thân cho phong trào đấu tranh bằng giải pháp hòa bình nhằm đạt tới những cải cách sâu rộng từng bước đi tới việc xóa bỏ chế độ apartheid tại xứ sở ông. Dựa vào sức mạnh của tuổi trẻ, ông cùng những người đồng chí hướng lập riêng một bộ phận lấy tên Đoàn Thanh Niên ANC hoạt động khá hữu hiệu và có tiếng vang nhất định. Chánh quyền apartheid đã phản ứng quyết liệt và đè bẹp phong trào bằng các cuộc đàn áp đẫm máu.

Người thanh niên hiểu rằng đường lối hòa bình không dẫn đến thành công và rằng không còn con đường nào khác hơn là phải đấu tranh bằng vũ lực. Lúc này đã ở tuổi 43, ông đóng cửa văn phòng, tìm cách liên minh với vài tổ chức đấu tranh trong đó có Đảng Cộng sản Nam Phi, trớ trêu là đảng viên của đảng này đa phần là người da trắng, bản chất và phương thức đấu tranh của họ là bạo lực, điều mà Mandela đang hướng tới. Hai bên liên mính lập thành tổ chức quân sự lấy tên Umkhonto we Sizwe (gọi tắt là M.K./Ngọn giáo của dân tộc Phi), dù có đổi tên nhưng chủ chốt vẫn là ANC do chính Mandela thống lãnh quyền chỉ huy. Đây là bưóc chuyển đổi quan trọng của phong trào đấu tranh và cuộc đời dấn thân của Mandela.

Ngay năm sau (1962), ông cải trang làm một tài xế vượt biên giới, sau đó đi khắp châu Phi, kể cả một số nước của châu Âu để quảng bá và tranh thủ sự ủng hộ công cuộc đấu tranh đòi bình đẳng cho đồng bào ông, đặc biệt các nước thuộc thế giới thứ ba đang có cao trào nổi lên dành lại nền độc lập từ chủ nghĩa thực dân. Bản thân ông đã được huấn luyện một khóa về chiến tranh du kích, và ông nhìn nhận có khâm phục Fidel Castro và Che Guevara như là các khuôn mặt bậc thầy trong phương thức đấu tranh phá hoại, nhất là sau khi Fidel thành công ở Cuba. Nhưng bản thân Mandela không hề mặn mà với đấu tranh ý thức hệ, không chủ trương chiến tranh giải phóng dưới hình thức du kích sợ chuyển thành nội chiến, quyết tâm lấy bạo lực làm phương tiện để đạt được cứu cánh làm người da trắng phải thay đổi chính sách.

Chưa đầy nửa năm, ông được tổ chức gọi về nước. Chánh quyền Nam Phi sợ uy thế của ông, liền bắt giữ ông và tuyên án 5 năm tù giam. Vừa ở tù ít lâu, trùng hợp với nhiều vụ phá hoại ngay tại thủ đô, chánh quyền lại đưa ông cùng10 đồng chí ra tòa về tội âm mưu lật đổ chế độ. Tòa kết án chung thân, chính Madela tự bào chữa và kết thúc phiên tòa bằng một diễn từ qua ngôn ngữ của luật gia kéo dài 4 tiếng đồng hồ, trong đó ông nhìn nhận xử dụng bạo lực. Đáng chú ý có lời biện minh, tạm dịch:

“Tôi không phủ nhận là tôi chủ trương phá hoại. Tôi theo đuổi nó không phải với tinh thần vô trách nhiệm hoặc vì yêu thích bạo lực. Tôi hoạch định nó như là môt hệ quả tất yếu của sự lượng giá bình tĩnh và sáng suốt nằm trong khuôn khổ của một bối cảnh chính trị đang dâng trào bột phát sau những tháng năm dân tộc tôi bị bóc lột, hành hạ, và áp bức bởi người da trắng.” (trích biên bản Tòa, April 20,1964)

Sau phiên tòa đầy kịch tính với bản án định sẵn, người ta đã đưa ông đến một nhà tù khét tiếng và an ninh nghiêm nhặt tại một hòn đảo ngoài khơi cách Cape Town 7 miles. Ông ở trong một xà-lim đúng 19 năm trong tổng số 27 năm trước khi được tự do. Cũng năm này ANC và đảng Cộng sản Nam phi bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.

Dù ở trong tù, ông vẫn là linh hồn của phong trào đấu tranh, dù bị cách ly ông vẫn có những chỉ đạo liên hệ đến tổ chức. Đáng chú ý chỉ hai năm sau, vụ ám sát gây nên cái chết của cha đẻ cũng là công trình sư của chủ nghĩa apartheid là thủ tướng Verwoerd đã diễn ra ngay tại Johannesburg.

Trong suốt 27 năm, nhiều lần chánh quyền đã ‘xuống nước’ khi tuyên bố sẵn sàng trả tự do cho ông với điều kiện ông phải cam kết từ bỏ bạo lực. Ông giữ vững lập trường, ngay cả khi chế độ do áp lực của cả trong lẫn ngoài nước, cùng hệ quả cấm vận khiến kinh tế kiệt quệ, giới lãnh đạo apartheid đã từng bước đi đến thương thảo với ông hầu tìm ra phương cách cải tổ, ông chỉ đồng ý khi hai bên cùng tin cậy lẫn nhau và giao hẹn một khi không tìm được giải pháp khả thi trong tinh thần tương nhượng, ông và các đồng chí của ông sẽ quay về con đường bạo lực.


Năm1990 ông ra khỏi tù, trực tiếp thương thảo với tổng thống Nam phi de Klerk dọn đường cho việc bãi bỏ chế độ apartheid và thiết lập các cuộc bầu cử tự do đa sắc dân. Quá trình làm việc diễn tiến tốt đẹp, cả hai chính khách được trao giải Nobel Hòa Bình năm 1993. Một năm sau, Mandela và đảng ANC dẫn đầu số phiếu trong cuộc phổ thông đầu phiếu, Mandela trở thành Tổng thống da đen đầu tiên của một đất nước mà 30 năm trước những người da trắng đã bắt giữ và bỏ tù ông. Việc chuyển quyền diễn ra trong tinh thần hòa hợp hoà giải dân tộc, đáng khâm phục là de Klerk chịu làm phụ tá cho Mandela mở đầu cho một chương mới trong tiến trình dân chủ tự do và bình quyền tại Nam Phi.

Người ta cũng chú ý và nhắc nhiều đến thái độ của Mandela trong quá trình thương thuyết với de Klerk. Họ tin cậy và tôn trọng lẫn nhau khi một bên hứa sẽ tiến hành nghiêm chỉnh quá trình chuyển đổi, một bên lại đi xa hơn khi biết chắc ở thế thượng phong, bản thân Mandela quan tâm đến phương thức làm sao có thể bảo vệ an toàn cho người da trắng (thiểu số) để khỏi bị ‘trả thù’ một khi người da đen (đa số) có dịp nắm quyền. Đây cũng là bài học cho những nhà chính trị có lương tri khi giải quyết hậu quả của những cuộc tranh chấp chính trị, quân sự, ý thức hệ… (tránh sự đối xử tàn tệ kiểu Lê Duẩn ở Việt nam hay tắm máu kiểu Pôn Pốt ở Kampuchia sau 75).

Nay thì Nelson Mandela đã đi vào lịch sử, dù chính ông đã khiêm tốn, tôi chẳng có gì để lịch sử nói nhiều về tôi, mà tôi chỉ muốn được nhớ đến như một phần của lịch sử tích tụ lại. Obama thì đi xa hơn, Mandela không còn là của chúng ta, ông đã là người thuộc về các thế đại. Đối với người da đen, Mandela trước sau vẫn là Tata (Bố thân thương) theo ngôn ngữ của bộ lạc. Đối với cộng đồng dân tộc, dù trắng hay đen, Mandela trở thành ‘Cha già Dân tộc’ (Father of the Nation) được ngưỡng vọng từ đáy lòng của nhân dân Nam Phi. Cũng cần ghi nhận Mandela đã được trao tặng ít nhất 250 loại huân chương, huy chương, giải thưởng cao quí của cộng đồng quốc tế, trong đó có Huân chương Lenin của Liên Xô và Huân chương Tự Do của Tổng thống Mỹ.

Có một điều khi độc giả đọc trên Google thì dòng tiểu sử của Mandela có ghi một thời ông là người Cộng sản, thậm chí là một cộng sản gộc của đảng Cộng sản Nam Phi (ủy viên trung ương) và bài báo mới nhất (Dec 8, 2013) trên tờ New York Times tựa đề ‘Nelson Mandela – A Communist’ của một ký giả Mỹ đã từng ái mộ và có nhiều cuộc tiếp xúc vói ông. Thực hư thì cũng khó nói.

Chỉ biết sau ngày ông nằm xuống, người ta có tranh cãi về điều này. Tranh cãi vì lúc sinh thời, Mandela chưa bao giớ tuyên bố mình là một người Cộng sản. Ông nhìn nhận có ảnh hưởng chủ nghĩa Mác như đa số các lãnh tụ ở Á, Phi khi đứng lên tranh đấu cho nền độc lập từ chủ nghĩa thưc dân (Gandhi, Nehru, Nasser…), riêng ông liên minh với các ‘đồng chí’ Cộng sản chỉ mang tính chiến thuật khi cùng nhau đứng về phía chính nghỉa cho một mục tiêu chung. Trong khi đảng Cộng sản Nam Phi, thậm chí có cả ANC đồng xác nhận Mandela có thời bí mật theo đảng và mau mắn chia buồn về cái chết của người ‘cựu đồng chí kiệt xuất’ của họ.

Bài báo của NYT thì cho rằng dù Mandela có là Cộng sản thì cũng chẳng làm nhẹ thể quá trình đấu tranh và thân thế sự nghiệp của ông và dẫn độc giả hiểu ngầm chuyện này là bình thường và chẳng đáng để tranh cãi.

Xét cho cùng, Mandela dù nhân thân có là cộng sản thì cũng chỉ là liên minh chính trị tạm thời cho một giai đoạn đấu tranh quyết liệt, nhưng trái tim của Tata thì hoàn toàn ‘không cộng sản’. Mandela không hề có tâm địa trả thù, ra tù sau gần 30 năm vẫn an nhiên tự tại, bỏ lại sau lưng niềm cay đắng, nắm bắt cơ hội dẫn đến hòa giải hòa hợp dân tộc. Mandela không theo đuổi quyền lực, sau một nhiệm kỳ tự nguyện rút lui dù biết rằng nếu tái ứng cử ông vẫn thắng. Mandela không xuất thân thợ thuyền, có học, trọng luật, biết thương thảo, biết thương cảm, biết linh động, không hề cao ngạo khi ở thế thượng phong, và trên hết dấn thân vào con đường đấu tranh hoàn tòan thúc đẩy bởi động cơ trong sáng mưu tìm cho sự bình quyền, tự do và hạnh phúc cho dân tộc Nam Phi và không làm tay sai cho một ý thức hệ nào khác.

ĐỖ XUÂN TÊ

Cali, tháng 12, 2013

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.