Nhân Dịp HT Quảng Độ Được Đề Cử Lãnh Giải Nobel Hòa Bình
HT Thích Quảng Độ Được Đề Cử Lãnh Giải Nobel Hòa Bình Của Năm 2000
Nhân ngày kỷ niệm 51 năm Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 10.12.1999 vừa qua, 29 vị dân biểu và thượng nghị sĩ Hoa-Kỳ đã viết thư cho Ủy Ban Lựa Chọn Giải Nobel Hòa Bình của Viện Nobel của Na-Uy (Norwegian Nobel Institute) đề nghị Hòa Thượng Thích Quảng Độ được lãnh giải thưởng Nobel Hòa Bình cho năm 2000. Nữ dân biểu Loretta Sanchez (Dân Chủ, California, District 46) đứng đầu danh sách những người ký tên. Trong văn thư này có đoạn viết nguyên văn như sau: “The Nobel Peace Prize, more than any other national or international symbol, upholds the virtues of peace, promotes social justice, and honors those brave enough to risk life, limb, and liberty in their pursuit. The Venerable Thich Quang Do is such a person.”. Câu này xin được tạm dịch như sau: “Giải thưởng Nobel Hòa Bình, hơn bất cứ biểu tượng quốc gia hoặc quốc tế nào khác, bảo tồn giá trị của nền hòa bình, khuyến khích công bằng xã hội, và vinh danh những người có đủ can đảm, bất chấp nguy hiểm cho đời sống, tính mạng và tự do của mình để theo đuổi những giá trị đó. Hòa Thượng Thích Quảng Độ là một trong những người như vậy.” Một câu nói chí lý sau đây của Hòa Thượng Thích Quảng Độ cũng đã được trích dẫn trong văn thư đề cử: “Cái ác không thể nào tồn tại mãi được. Đó là chân lý đã được lịch sử chứng minh.” Cuộc vận động cho Hòa Thượng Thích Quảng Độ lãnh giải Hòa Bình năm 2000 đã bắt đầu khắp các nơi khác như tại Âu Châu và Úc. Trong nhiều thập niên vừa qua, Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã tranh đấu bất bạo động để bênh vực những quyền căn bản của con người và sự tự do tín ngưỡng. Ngài đã bị ngồi tù, quản thúc tại gia, đi lãnh nạn, rồi lại bị cầm tù chỉ vì biện hộ cho nhân quyền. Tin ngài được đề cử lãnh giải Nobel Hòa Bình là một tin vui cho mọi người dân Việt-Nam, ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Nhân dịp này, tác giả xin viết về lịch sử và ý nghĩa của giải Nobel Hòa Bình.
Những Cá Nhân Đã Được Trao Giải Nobel Hòa Bình Từ Năm 1901 Đến Nay
Tiến Sĩ Nguyễn Anh Tuấn có viết một bài khá đầy đủ chi tiết trên tờ bán nguyệt san Ngày Nay (số 424, ngày 1.12.1999) về tổ chức và hoạt động của Hàn Lâm Viện Thụy Điển và giải Nobel về Khoa Học, Kinh Tế và Văn chương. Bài này sẽ chú trọng về giải Nobel Hòa Bình. Cũnh như những giải Khoa-Kọc và Văn Chương, Giải Nobel Hòa Bình đầu tiên được trao vào năm 1901. Riêng về giải Kinh-Tế mãi đến năm 1969 mới được Viện Nobel cấp phát. Giải Nobel này do Sveriges Riksbank (Bank of Sweden) thiết lập vào năm 1968 để kỷ niệm 300 năm thành lập. Hai người đầu tiên được giải Nobel Hòa Bình là các ông Jean Henri Dunant, người Thụy Sĩ, sáng lập ra Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế và là người khởi công soạn ra Hiệp Ước Geneva và ông Frederic Passy, người Pháp, sáng lập viên và là chủ tịch của Hội Pháp Quốc Hòa Giải Giữa Các Quốc Gia. Trong số 106 người và tổ chức đã được trao giải Nobel Hòa Bình cho đến nay, có một số từng là nguyên thủ quốc gia như Tổng Thống Hoa-Kỳ Theodore Roosevelt (1906), Thủ Tướng Bỉ August M. Francois Beernaert (1909), Tổng Thống Hoa-Kỳ Thomas Woodrow Wilson (1919), Thủ Tướng Pháp Leon Victor Auguste Bourgeois (1920), Thủ Tướng Karl H. Branting (1921), Thủ Tướng Đức Willy Brandt (1971), Tổng Thống Ai Cập Anwar Al-Sadat (1978), Thủ Tướng Do Thái Menachem Begin (1978), Tổng Thống Ba-Lan Leszek Walesa (1983), Tổng Thống Costa Rica Oscar Arias Sanchez (1987), Tổng Thống Nga Mikhail S. Gorbachev (1990), Tổng Thống Nam Phi Frederick Willem de Klerk (1993), Thủ Tướng Do Thái Yitzhak Rabin (1994), và Chủ Tịch Chính Quyền Palestinian Yassir Arafat (1994).
Các Vị Lãnh Đạo Tôn Giáo Được Trao Giải Hòa Bình
Trong số cá nhân được lãnh giải Nobel Hòa Bình, có một số là những nhà lãnh đạo tôn giáo, hoạt động cho nhân quyền và xã hội như Đức Tổng Giám Mục Lars Olof J. Soderblom, người Thụy Điển (1930), Cha George Pire, người Bỉ (1958), Dr. Martin Luther King Jr., người Mỹ (1964), Mẹ Teresa, gốc người Albania, quốc tịch Ấn Độ (1979), Đức TGM Desmond Tutu, người Nam Phi (1984) và Đức Dalai Lama thứ 14, người Tây Tạng (1989), Đức Giám Mục Carlos Felipe X. Belo (1996). Chúng ta hi vọng rằng Hòa Thượng Thích Quảng Độ sẽ được chọn lãnh giải Nobel Hòa Bình cho năm 2000. GS Đoàn Viết Hoạt tin rằng việc đề cử Hòa Thượng Thích Quảng Độ lãnh giải Nobel Hòa Bình là “một nỗ lực sáng suốt và có ý nghĩa. Sự kiện này cho thấy thế giới đã công nhận và ủng hộ phong trào đấu tranh bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền ở Việt-Nam... Nỗ lực này sẽ đem đến niềm vinh dự cho mọi người Việt ở trong cũng như ở ngoài nước.” Chúng ta còn nhớ Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh là một nhà tu hành Phật giáo Việt-Nam đầu tiên được đề cử lãnh giải Nobel Hòa Bình vào năm 1967. Người đề cử Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh là Mục Sư Martin Luther King, Jr. Tuy nhiên, trong hai năm liền 1966-67 không ai được chọn để lãnh giải Nobel Hòa Bình.
Những Phụ Nữ Được Trao Giải Nobel Hòa Bình
Trong hơn nửa thế kỷ đầu, từ năm 1901 cho đến 1960, hầu hết giải Nobel Hòa Bình đều được trao cho những người ở Âu Châu và Bắc Mỹ với một ngoại lệ là Bộ Trưởng Ngoại Giao Lamas của Á Căn Đình. Từ năm 1960 trở về sau, giải Nobel Hòa Bình dần dần trao cho khắp nơi trên thế giới. Có rất ít phụ nữ đoạt được giải này. Cho tới nay chỉ mới có 10 người thuộc phái nữ được trao giải Nobel Hòa Bình trong đó có những người nổi tiếng như văn sĩ Bertha von Suttner của Áo (1905), Mẹ Teresa của Ấn Độ (1979), Aung San Suu Kyi của Miến Điện (1991), Rigoberta Menchu Tum của Guatemala (1992), và Jody Williams của Hoa-Kỳ (1997). Bà Bertha von Suttner là người đàn bà đầu tiên được giải Nobel Hòa Bình. Bà là một nhân vật nổi tiếng trong phong trào hòa bình và mạnh mẽ chống lại việc tranh đua sản xuất vũ khí. Một trong những cuốn sách nổi tiếng của bà là cuốn “Lay Down Your Arms”. Bà làm quản gia và thư ký cho ông Nobel trong một thời gian ngắn với cái tên là Bá Tước phu nhân Bertha Kinsky. Sau đó bà trở về Áo và lập gia đình với Bá Tước Arthur von Suttner. Mặc dù vậy bà vẫn giữ liên lạc với ông Nobel và tư tưởng yêu chuộng hòa bình của bà Suttner đã ảnh hưởng tới ông Nobel rất nhiều và đã khiến ông lập ra giải Hòa Bình.
Những Cơ Quan Được Trao Giải Nobel Hòa Bình
Trong nhiều trường hợp giải Nobel Hòa Bình được trao cho các cơ quan phụng sự hòa bình như Viện Công Pháp Quốc Tế (1904), Văn Phòng Thường Trực Quốc Tế Phục Sự Hòa Bình (1910), Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế (1917, 1944, 1963), Văn Phòng Quốc Tế Nansen Phục Vụ Dân Tị Nạn (1938), Hội Đồng Quaker Phục Vụ Bạn Hữu (1947), Ủy Ban Quaker Hoa-Kỳ Phục Vụ Bạn Hữu (1947), Văn Phòng Cao Ủy Tị Nạn Liên-Hiệp-Quốc (1955, 1981), Quỹ Liên-Hiệp-Quốc Phục Vụ Trẻ Em (1965), Tổ Chức Lao-Động Quốc Tế (1969), Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế (1977), Tổ Chức Y Sĩ Thế Giới Ngăn Ngừa Chiến Tranh Nguyên Tử (1985), Lực Lượng Bảo Vệ Hòa Bình của Liên Hiệp Quốc (1988) , Chiến Dịch Quốc Tế Vận Động Cấm Xử Dụng Mìn (1997), và Hội Y Sĩ Không Biên Giới (1999). Như chúng ta thấy có một số tổ chức được lãnh giải Nobel Hòa Bình nhiều lần như Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế và Văn Phòng Cao Ủy Tị Nạn Liên-Hiệp-Quốc. Về cá nhân thì chưa ai được lãnh quá một lần cả.
Giá Trị Về Tiền Bạc Của Giải Nobel
Có những năm giải Nobel Hòa Bình không được trao cho ai cả vì lý do chiến tranh hoặc không có người xứng đáng. Trong trường hợp đó, số tiền không dùng tới được bỏ vào quỹ chính của Ủy Ban Quản Trị Quỹ Nobel (Nobel Foundation) hoặc bỏ vào lại quỹ đặc biệt để dành làm giải thưởng. Nếu năm nào có trên một người được chọn lựa, thì số tiền thưởng sẽ được chia đều cho những người được thắng giải. Tuy nhiên, luật lệ của Ủy Ban Quản Trị Quỹ Nobel có nói rõ rằng trong mọi trường hợp, giải thưởng không được chia cho quá ba người. Số tiền thưởng cho mỗi giải Nobel đều như nhau cho mỗi năm. Trong năm 1999 mỗi giải trị giá 7.9 triệu đồng Thụy Điển Krona, tương đương khoảng gần 1 triệu Mỹ kim. Tiến sĩ Alfred Bernard Nobel, người Thụy Điển, đã viết di chúc ngày 27.11.1895 để sáng lập ra giải thưởng mang tên ông nổi tiếng và giá trị này. Ông Nobel sinh ngày 21.10.1833 tại Stockholm. Cha ông là một kỹ sư và một nhà sáng chế. Mẹ ông xuất thân từ một gia đình giầu có. Cha ông làm giầu qua nhiều ngành kỹ nghệ khác nhau như xây cất, sản xuất võ khí và quân cụ, và dầu hỏa. Ông Nobel rất thích thơ, văn chương và thông thạo năm ngôn ngữ là Thụy Điển, Nga, Pháp, Anh và Đức. Cha ông muốn ông tham gia vào sự nghiệp trong ngành kỹ sư của cha ông, nên gửi ông đi nhiều nước kể cả Hoa-Kỳ để học về ngành kỹ sư hóa học. Tại Paris ông Nobel gập một nhà hóa học trẻ tuổi người Ý tên là Ascanio Sobrero. Trước đó ba năm ông này đã sáng chế ra chất nitroglycerine. Sau nhiều năm nghiên cứu, ông Nobel đã thành công trong việc chế tạo một vật liệu để dùng trong kỹ nghệ mà ông đăng ký là dynamite được chế tạo từ chất nitroglycerine pha trộn với silica. Dynamite rất tiện dụng trong kỹ nghệ xây cất. Ông rất bận rộn xây cất nhà máy và phòng thí nghiệm ở rất nhiều nơi trong trên 20 nước, nên dùng rất nhiều thì giờ để di chuyển. Ông Nobel không bao giờ lập gia đình. Văn Sĩ kiêm Thi Sĩ Victor Hugo gọi ông là một lãng tử giầu nhất của Âu châu. Ủy Ban Quản Trị Qũy Nobel được thành lập sau khi ông Nobel đã qua đời. Số tiền khá nhiều của ông để lại được bỏ một quỹ. Tiền trong quỹ được đem ra đầu tư và tiền lời kiếm được chia đều ra năm phần để làm năm giải thưởng cho năm ngành khác nhau: vật lý, hóa học, sinh lý học hoặc y khoa, văn chương, và hòa bình.
Các Cơ Quan Phụ Trách Giải Nobel
Hai giải thưởng về hai ngành vật lý và hóa học do Viện Khoa Học Thụy Điển phụ trách. Về giải thưởng cho ngành sinh lý học và y khoa do Viện Nghiên Cứu Karolinska tại Stockholm quyết định. Về văn chương do Hàn Lâm Viện Thụy Điển lựa chọn. Mặc dù là một người dân Thụy Điển, ông Nobel lại muốn giao giải Hòa Bình cho nước Na-Uy nhỏ bé ở cực bắc Âu Châu phụ trách. Một tổ chức gọi là Ủy Ban Nobel Na-Uy (Nowegian Nobel Committee) gồm năm người do Hội Đồng Quốc Gia Na-Uy (Storting), một thứ quốc hội dưới chính thể cộng hòa, chỉ định để cứu xét về giải thưởng Hòa Bình. Các thành viên của Ủy Ban Nobel Na-Uy có nhiệm kỳ là sáu năm và có thể được tái nhiệm. Tuy được chỉ định, nhưng Ủy Ban Nobel Na-Uy hoàn toàn độc lập với Hội Đồng Quốc Gia Na-Uy. Viện Nobel Na-Uy (Nowegian Nobel Institute) được thành lập vào năm 1904 để giúp Ủy Ban Nobel Na-Uy trong việc tuyển chọn người vào Ủy Ban Nobel Na-Uy, nhận thư đề cử và chọn người lãnh giải thưởng, tổ chức chương trình Nobel hàng năm tại Oslo, và điều hành thư viện Nobel đặc biệt chuyên sưu tầm sách báo và tài liệu về đề tài hòa bình. Vị giám đốc của Viện Nobel Na-Uy kiêm nhiệm chức vụ Thư Ký cho Ủy Ban Nobel Na-Uy. Ông Alfred Nobel không bao giờ giải thích cho ai biết tại sao ông lại muốn nhờ Hội Đồng Quốc Gia Na-Uy chỉ định một ủy ban để phụ trách giải Nobel Hòa Bình. Người ta phỏng đoán rằng quyết định của ông dựa vào hai yếu tố. Thứ nhất là Hội Đồng Quốc Gia Na-Uy là một cơ chế quốc gia đầu tiên ủng hộ phong trào hòa bình thế giới. Thứ hai là Na-Uy là một quốc gia liên bang với Thụy Điển, không có một chính sách ngoại giao riêng biệt, ít bị thiên lệch bởi các áp lực chính trị. Để bảo vệ vai trò độc lập của Ủy Ban Nobel Na-Uy, Hội Đồng Quốc Gia Na-Uy vào năm 1937 quyết định rằng nhân viên của chính phủ không được gia nhập Ủy Ban Nobel Na-Uy. Kể từ năm 1977 về sau, các hội viên đương thời của Hội Đồng Quốc Gia Na-Uy cũng không được lựa chọn vào Ủy Ban Nobel Na-Uy.
Cách Thức Tuyển Chọn Người Lãnh Giải Nobel
Tiến sĩ Alfred Bernard Nobel trong di chúc đã dặn dò là việc chọn người lãnh giải thưởng phải dựa theo tiêu chuẩn giá trị, chứ không được xét đến quốc tịch của những người được đề cử, bất kể là người đó thuộc xứ Scandinavia hay không. Giải Nobel chỉ được cấp cho những người còn sống mà thôi. Tuy nhiên giải thưởng Nobel sẽ vẫn được trao nếu người được thắng giải bị chết sau khi đã được chọn. Trường hợp ông Tổng Thư Ký Liên-Hiệp-Quốc Dag Hammarskjold, người Thụy Điển, là một ngoại lệ. Ông được cấp giải Nobel Hòa Bình của năm 1961 sau khi đã chết. Ông Dag Hammarskjold bị tử nạn máy bay vào ngày 18.9.1961 ở gần biên giới giữa Katanga (một vùng thuộc phía đông nam của Zaire nay gọi là Democratic Republic of Congo) và North Rhodesia (bây giờ gọi là Zambia), khoảng một tháng trước khi Ủy Ban Nobel Na-Uy công bố giải Nobel cho năm 1961. Muốn được cứu xét để lãnh giải Nobel, những thư đề cử ứng viên phải gửi đến Ủy Ban Nobel Na-Uy vào hạn chót là ngày 1 tháng 2. Những người được đề cử trễ sẽ được cứu xét vào năm sau. Trong những năm gần đây, mỗi năm có trên 100 người được đề cử lãnh giải Hòa Bình. Ủy Ban Nobel Na-Uy thường nhận được nhiều hơn 100 lá thư đề cử vì nhiều người đề cử cùng một người. Những người sau đây được quyền đề cử ứng viên cho giải Hòa Bình: (1) Thành viên cũ và đương thời của Ủy Ban Nobel Na-Uy và cố vấn của Viện Nobel Na-Uy; (2) Dân biểu và nghị sĩ quốc hội, nhân viên nội các của các chính phủ, và nhân viên hội đồng liên hiệp nhiều quốc gia; (3) Thành viên của Tòa Án Hoà Giải Thường Trực và Tòa Án Quốc Tế tại The Hague; (4) Thành viên của Văn Phòng Thường Trực Quốc Tế Phục Vụ Hòa Bình; (5) Thành viên của Viện Công Pháp Quốc Tế; (6) Giáo sư đang dậy học tại các đại học về luật khoa, chính trị, lịch sử và triết học; (7) Những người đã được giải Nobel Hòa Bình. Cũng nên nhấn mạnh cho rõ là Ủy Ban Nobel không cứu xét đơn cá nhân tự xin tranh các giải Nobel kể cả giải Hòa Bình.
Kết quả thường được công bố vào ngày thứ Sáu giữa tháng Mười, không nhất thiết rơi vào một ngày nhất định trong tháng. Giải thưởng sẽ được trao đúng vào ngày 10 tháng 12 mỗi năm là ngày ông Alfred Nobel chết vào năm 1896. Các lễ trao giải thưởng khoa học và văn chương đều được tổ chức tại thủ đô Stockholm dưới sự chủ tọa của Vua Thụy Điển. Nhà Vua đích thân trao giải thưởng cho những người đoạt giải. Lễ trao giải Hòa Bình được tổ chức tại thủ đô Oslo của Na-Uy dưới sự chủ tọa Vua và Hoàng Hậu Na-Uy nhưng giải thưởng được trao bởi Chủ Tịch Ủy Ban Nobel Na-Uy. Giải Nobel được coi là một giải cao quý nhất thế giới. Cho nên ngày 10 tháng 12 mỗi năm trở thành một ngày mà báo chí, các hệ thống phát thanh và truyền hình trên khắp thế giới đổ về Stockholm và Oslo để ghi lại những hình ảnh lịch sử nói lên sự tiến bộ về khoa học, văn chương và hòa bình của nhân loại.
Giải Hòa Bình Rắc Rối Nhất Trong Các Giải Nobel
Trong các giải Nobel, giải Hòa Bình thường gây nhiều tranh luận nhất so với các giải văn chương và khoa học vì tính cách chính trị của nó. Rất hãn hữu mới có trường hợp mọi người có thể đều đồng ý với sự lựa chọn của Uỷ Ban Nobel của Na-Uy như sự lựa chọn Mẹ Teresa chẳng hạn. Đối với tất cả những trường hợp khác kể cả những trường hợp người thắng giải khá nổi tiếng thì việc lựa chọn không ít thì nhiều cũng gây bàn cãi. Như trên đây đã nói, giải Nobel Hòa Bình đầu tiên cấp vào năm 1901 cho ông Henri Dunant, người Thụy Sĩ, chủ tịch và là sáng lập viên của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế và ông Frederic Passy, người Pháp, chủ tịch và là sáng lập viên Hội Pháp Quốc Hòa Giải các Quốc Gia đã gây bàn cãi sôi nổi. Những người ủng hộ ô. Passy cho rằng Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế không làm gì cả để ngăn ngừa chiến tranh và chỉ làm bớt sự đau khổ khi chiến tranh đã bùng nổ. Những người ủng hộ ô. Dunant bác bỏ lập luận đó. Những thí dụ khác có thể lấy ra trong lịch sử cận đại như trường hợp Mục Sư Martin Luther King, Jr., ông Nelson Mandela và Tổng Thống F.W. de Klerk của Nam Phi, nhà Vật Lý Nguyên Tử học Andrei Sakharov và Tổng Thống Mikhail Gorbachev của Nga Sô. Sự đắc thắng của Mục Sư Martin Luther King, Jr. đã làm xúc động những người Mỹ da trắng không ít. Sự lựa chọn Andrei Sakharov xúc phạm đến các nhà lãnh đạo Sô Viết không ít. Nhiều người Nga không vui vẻ về sự thắng giải Hòa Bình của cựu Tổng Thống Mikhail Gorbachev của họ. Người Nam Phi da trắng cũng không ưa thích gì về sự đắc thắng của ông Nelson Mandela, để rồi sau này ông trở thành Tổng Thống của Nam Phi. Lúc thắng giải vào năm 1993 ông là Chủ Tịch của tổ chức African National Congress viết tắt là ANC, mới được trả tự do được ba năm sau 26 năm bị giam tù. Uỷ Ban Nobel của Na-Uy, bất kể đến những chống đối của các phe nhóm đối nghịch, hãnh diện là đã vượt qua được nhiều khó khăn đó, để làm những quyết định đúng đắn.
Giải Nobel Hòa Bình Rắc Rối Nhất Thế Kỷ
Giải Nobel Hòa Bình gây nhiều sôi nổi nhất trong cả gần một thế kỷ là giải cấp vào năm 1973 cho hai chính khách là hai ông Lê Đức Thọ và Henry A. Kissinger. Cả hai ông là trưởng phái đoàn thương thuyết lần lượt của Bắc Việt và Hoa-Kỳ tại Hội Nghị Paris. Ông Thọ, theo lệnh của Bộ chính Trị, đã từ chối không nhận giải thưởng. Ô. Kissinger chấp thuận nhận giải thưởng nhưng không bay qua Thụy Điển để đích thân lãnh với lý do là bận nhiều công vụ khác. Ông đã nhờ Đại Sứ Byrne đại diện ông để lãnh giải thưởng. Hai ông Thọ và Kissinger đã được chọn cấp giải Nobel Hòa Bình vì sau gần bốn năm làm việc dòng dã đã đạt được một thoả hiệp ở Paris để thực hiện một cuộc ngưng chiến và hi vọng cuối cùng sẽ đưa tới một nền hòa bình theo sự mong ước của Ủy Ban Nobel Na-Uy. Hiệp Định Paris được hai ông Thọ và Kissinger ký tắt vào ngày 23.1.1973. Cả bốn phe chính thức ký vào Hiệp Định ngày 27.1.1973 với một cuộc ngưng bắn trên toàn cõi Việt-Nam có hiệu lực vào ngày hôm sau. Quân đội Mỹ đã bắt đầu dần dần rút khỏi Việt-Nam từ ngày 8.6.1969 trong khoảng thời gian cuộc hòa đàm tại Paris mới bắt đầu được năm tháng. Đến cuối năm 1972, Hoa-Kỳ chỉ còn lại 27,000 binh sĩ và vào ngày 29.3.1973 người lính Mỹ cuối cùng đã rời khỏi Việt-Nam. Ông Lê Đức Thọ là người đầu tiên trong lịch sử đã từ chối không nhận giải Nobel. Ông đưa ra lý do là Việt-Nam chưa thật sự có hòa bình. Ủy Ban Nobel Na-Uy giải thích rằng ông muốn đợi xem tình hình Việt-Nam có thay đổi như thoả hiệp Paris ấn định hay không. Vì vậy Ủy Ban này theo luật đã giữ giải thưởng cho ô. Thọ gần một năm, cho đến hết ngày 1.10.1974 để rồi một nửa số tiền thưởng của tổng số tương đương với khoảng $90,000 cùng với chứng thư và huy chương không bao giờ được lãnh ra. Thật đúng như ông Thọ nói, trong thời gian 1960-75 đất nước chưa có hòa bình do sự kiện là giới lãnh đạo miền Bắc muốn duy trì chiến tranh để lấy nốt miền Nam và ngay cả tới bây giờ không người dân nào ở trong nước từ thành thị đến thôn quê cảm thấy được sống yên ổn. Các nhà lãnh đạo Cộng Sản Hà-Nội, theo kế hoạch đã định trước, đã kéo dài chiến tranh bằng súng đạn để nuốt gọn miền Nam vào hai năm sau, áp đặt chế độ Cộng Sản trên cả hai phần đất của Việt-Nam. Tại lễ phát giải Nobel Hòa Bình vào ngày 10.12.1973 tại Oslo, bà Aase Lionaes, Chủ Tịch của Ủy Ban Nobel Na-Uy đã tuyên bố với sự vắng mặt của cả hai ông Thọ và Kissinger một đoạn nguyên văn bằng Anh ngữ như sau:
“We are under no illusion that the differences between systems and ideologies can be ignored; but the (Norwegian) Nobel Committee has been anxious to emphasise that in a world yearning for peace, no one can assume the right to force his particular system on others by armed might. Nations with different systems of government must be able to live together in peace and solve their controversies by negotiation.”
Đoạn này được tạm dịch như sau: “Chúng tôi không có ảo tưởng rằng những khác biệt về thể chế và ý thức hệ có thể bỏ qua một bên; nhưng Ủy Ban Nobel rất băn khoăn để nhấn mạnh rằng trong một thế giới khao khát hòa bình, không ai có quyền dùng võ lực để buộc người khác phải theo một thể chế đặc biệt nào. Những quốc gia với thể chế chính trị khác nhau phải biết sống chung hòa bình với nhau và phải biết giải quyết những bất đồng bằng cách thương thuyết.”
Thật sự ông Lê Đức Thọ có phục vụ cho hòa bình hay không để xứng đáng với giải Nobel Hòa Bình" Sau tháng 4, 1975, dưới sự chỉ đạo của hai ông Lê Đức Thọ và Lê Duẩn, một cuộc nội chiến khác đã bắt đầu bằng cách đẩy hàng trăm ngàn quân cán chính của chế độ cũ ở miền Nam vào cái trại tù và vùng kinh tế mới. Các ông cũng bỏ tù luôn cả nhiều đồng chí cũ của các ông ở cả hai miền vì họ nhận thức được những sai lầm của các ông và của chế độ Cộng Sản lỗi thời. Đến nay, tiếng súng đã êm, nhưng người dân vẫn chưa được sống trong hòa bình, vẫn nơm nớp lo sợ bị đói khát, bị bắt bớ giam cầm bất cứ lúc nào.
Trường hợp của ông Henry Kissinger còn rõ hơn. Như đã nói ở trên, ô. Kissinger đại diện cho quyền lợi của Mỹ, phải cứu nước Mỹ ra khỏi tình trạng xa lầy ở Việt-Nam do chính sách của những người tiền nhiệm của ông gây ra. Hoa-Kỳ đã lật đổ một chính phủ dân sự cuối cùng tương đối có tư cách ở miền Nam, dưới sự hợp tác của các Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Chánh Thi để dễ dàng ào ạt đưa quân vào Việt-Nam bắt đầu từ năm 1965 rồi hấp tấp rút quân vào bốn năm sau. Như vậy việc cho hai ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger giải thưởng Nobel Hòa Bình 1973 là một sai lầm. Lúc đó Việt-Nam chưa thực sự có hòa bình. Hai phe chỉ mới đạt được một thỏa ước ngưng bắn trên giấy tờ mà thôi. Những vi phạm đã xẩy ra ngay khi những chữ ký chưa ráo mực vì có sự khác biệt trầm trọng ngay cả ở trong Ủy Ban Quốc Tế Giám Sát Đình Chiến (International Commission of Control and Supervision) và Ủy Ban Quân Sự Hỗn Hợp Bốn Bên (Four-Party Joint Military Commission). Hiệp Định Paris chỉ vọn vẹn làm được hai việc như ông John Negroponte, Phụ Tá của ông Kissinger tại Paris đã nói là lấy lại được tù binh và chấm dứt sự can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa-Kỳ vào chiến tranh Việt-Nam. Câu tuyên bố đầy đủ của ông Negroponte như sau: “We got our prisoners back; we were able to end our direct military involvement. But there were no ostensible benefits for Saigon to justify all of the enormous effort and bloodshed of the previous year.” Vì biết Hoa-Kỳ không thể mang quân trở lại, nhất là trong tình trạng nội bộ hết sức chia rẽ và rối ren, nếu Hòa Ước Paris tan vỡ như bốn phe đã hứa, Cộng Sản Bắc Việt ồ ạt mang thêm quân và chiến cụ vào miền Nam để dự định thực hiện cuộc toàn thắng vào năm 1976. Nhưng thành công đã đến với họ sớm hơn dự tính.
Sự sai lầm ở mức trầm trọng khiến hai thành viên trong số năm người trong Ủy Ban Nobel Na-Uy do Hội Đồng Quốc Gia Na-Uy chỉ định để chọn nguời lãnh giải Nobel Hòa Bình 1973 đã quyết định từ chức. Thông thường Ủy Ban Nobel Na-Uy có lưu trữ và phổ biến tiểu sử chi tiết của những người được giải Nobel. Nhưng trong trường hợp của ông Lê Đức Thọ, trên tờ tiểu sử của ông người ta chỉ ghi vọn vẻn như sau: “Le Duc Tho, 1973 Nobel Laureate (declined the prize). Back ground: born: 1910; Residence: Democratic Republic of Vietnam.”. Trong bài diễn văn đọc tại lễ trao giải thưởng Nobel Hòa Bình 1973, bà Chủ Tịch Ủy Ban Nobel Na-Uy Aase Lionaes chỉ vọn vẹn nhắc đến lý do ông Thọ không nhận giải Nobel trong có bẩy dòng. Người ta không biết ông là ai. Trong khi đó bài diễn văn của Bà Aase Lionaes dài chín trang, bà đã dùng hết bốn trang để giới thiệu ông Kissinger. Buồn thay ông Thọ lại là người Việt-Nam duy nhất được giải Nobel cho đến nay. Đây có thể không phải là một sai lầm duy nhất trong lịch sử gần một thế kỷ của giải Nobel Hòa Bình. Trường hợp thứ hai nhiều người đã nói tới là trường hợp ông Mahatma Gandhi mà người Việt-Nam hay gọi là thánh Gandhi để tỏ lòng ngưỡng mộ và cả thế giới biết đến, nhưng ông không bao giờ được trao giải Nobel Hòa Bình cả.
Ảnh Hưởng Của Giải Nobel Hòa Bình Đối Với Nhân Loại
Giải Nobel Hòa Bình đã có một lịch sử gần một thế kỷ. Ảnh hưởng của nó như thế nào đối với nền hòa bình của nhân loại. Hiển nhiên là Giải Nobel Hòa Bình đã không chấm dứt được chiến tranh trên quả địa cầu này. Trong gần 100 năm qua, thế giới đã trải qua hai cuộc đại chiến. Sau đó là chiến tranh Trung Đông, Triều Tiên rồi đến Việt-Nam, và rất nhiều chiến tranh hơn giữa các quốc gia tại các vùng trên các lục địa Á châu, Phi châu, Trung Đông, và Âu châu, chưa kể đến những cuộc nội chiến lớn nhỏ. Nguyên nhân gây ra chiến tranh là sự tranh giành quyền lợi, quyền lực, và ảnh hưởng và khác biệt ý thức hệ và thể chế chính trị và không chấp nhận sự dị biệt về văn hóa giữa các dân tộc. Những nguyên nhân đó vẫn còn tồn tại. Các tôn giáo đã có cả ngàn năm trước đó cũng không diệt được chiến tranh, nói chi đến giải Nobel Hòa Bình. Để giúp phát triển nền hòa bình của thế giới, giải Nobel Hòa Bình nhắm làm giảm bớt những nguyên nhân gây ra chiến tranh, khuyến khích các cá nhân, tổ chức tư nhân, và chính phủ có những hoạt động phục vụ cho nền hòa bình của nhân loại. Tuy chiến tranh chưa bị tiêu diệt, nhưng nhân loại sau Thế Chiến thứ Hai đã được hưởng một nền hòa bình tương đối lâu dài nhất từ trước đến nay. Nhân loại đã biết dùng ngoại giao và thương mại để trao đổi và giải quyết những khác biệt, nhờ vào những tiến bộ vượt bực của kỹ thuật thông tin và chuyên chở ngày nay.
Giải Nobel Hòa Bình không làm hết chiến tranh, nhưng ảnh hưởng tốt đẹp và quan trọng của nó không ai có thể chối cãi được. Việc trao giải thưởng Nobel Hòa Bình mới đây vào năm 1996 cho Giám Mục Carlos Belo và ô. Jose Ramos-Horta vì cuộc tranh đấu dành quyền tự quyết cho dân tộc East Timor đã gây ảnh hưởng không ít đối với chính sách của Nam Dương, Hoa-Kỳ, Liên Hiệp Âu Châu và Liên-Hiệp-Quốc (LHQ) về vấn đề East Timor. Sau khi nền kinh tế của Nam-Dương suy xụp trầm trọng vào các năm 1997-98, tình hình chính trị của Nam-Dương đã thay đổi hẳn. Quốc gia này đã đồng ý cho tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 8, 1999 tại East Timor. Quân đội của LHQ đã được gửi tới East Timor để chấm dứt chém giết hỗn loạn tại đây sau khi kết quả của cuộc trưng cầu dân ý được công bố với đa số dân East Timor muốn lãnh thổ này độc lập với Nam Dương. Ủy Ban Hành Chánh của LHQ để Quản Trị Giai Đoạn Chuyển Tiếp đã được thành lập tại East Timor. Một thí dụ khác liên quan đến Miến Điện. Sau khi người đàn bà mảnh khảnh Aung San Suu Kyi được trao giải Nobel Hòa Bình vào năm 1991, Thế Giới đã chú ý và biết nhiều hơn về cuộc tranh đấu đòi tự do, dân chủ, và nhân quyền của bà và dân tộc Miến Điện. Sau nhiều năm không có một phản ứng nào, LHQ đã lên tiếng kết án chế độ quân phiệt của Miến Điện. Tiếp theo ngay sau đó chính phủ của nhiều cường quốc kể cả Nhật Bản đã thay đổi chính sách ngoại giao đối với Miến Điện, chỉ trích những vi phạm nhân quyền của quốc gia này. Giải Nobel Hòa Bình không làm chế độ quân phiệt Miến Điện xụp đổ và cũng chưa làm cho bà Aung San Suu Kyi thoát khỏi cảnh giam lỏng tại nhà, nhưng đã gây rất nhiều áp lực cho giới cầm quyền ở Rangoon và làm phấn khởi những người đang tranh đấu cho nhân quyền, tự do, và dân chủ cho quốc gia Miến Điện và ở những nơi khác trên thế giới. Chúng ta hi vọng là việc chọn Hòa Thượng Thích Quảng Độ để lãnh giải Nobel Hòa Bình năm 2000 sẽ thành sự thật và mong là biến cố quan trọng này sẽ mang lại nhiều thay đổi cụ thể cho tình hình trong nước.
Tài liệu tham khảo:
1. Irwin Abrams, “Nobel Peace Prize and the Laureatis”, MacMillan Library Reference, New York, 1998.
2. Irwin Abrams, “Heroines of Peace - The Nine Nobel Women.”, Antioch University.
3. Stanley Karnow, “Vietnam A History.”, Penguin Books, 1997 edition, New York 1997.
4. Ann T. Keene, “Peace Makers : Winners of the Nobel Peace Prize.”, Oxford University Press, 1998.
5. Stanley I. Kutler, “Encyclopedia of the Vietnam War.”, Macmillan Library Reference USA, New York 1996.
6. Aase Lionaes, “The Nobel Peace Prize for 1973”, Nobel Committee of the Norwegian Storting, Oslo 1973.
7. Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, “Các Cuộc Thương Lượng Lê Đức Thọ Kissinger Tại Paris.”.
8. Geir Lundestad, “The Nobel Peace Prize - Some Reflections.”, The Norwegian Nobel Committee, Oslo 1999
9. Yvind T. Nnesson, “The Nobel Peace Prize.”, The Norwegian Nobel Committee, Oslo 1999.
10. Nguyễn Anh Tuấn, “Giải Nobel Về Khoa-Học, Kinh-Tế Và Văn Chương Từ 1901 Tới 1999.”, Ngày Nay, Houston 1.12.1999.
HT Thích Quảng Độ Được Đề Cử Lãnh Giải Nobel Hòa Bình Của Năm 2000
Nhân ngày kỷ niệm 51 năm Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 10.12.1999 vừa qua, 29 vị dân biểu và thượng nghị sĩ Hoa-Kỳ đã viết thư cho Ủy Ban Lựa Chọn Giải Nobel Hòa Bình của Viện Nobel của Na-Uy (Norwegian Nobel Institute) đề nghị Hòa Thượng Thích Quảng Độ được lãnh giải thưởng Nobel Hòa Bình cho năm 2000. Nữ dân biểu Loretta Sanchez (Dân Chủ, California, District 46) đứng đầu danh sách những người ký tên. Trong văn thư này có đoạn viết nguyên văn như sau: “The Nobel Peace Prize, more than any other national or international symbol, upholds the virtues of peace, promotes social justice, and honors those brave enough to risk life, limb, and liberty in their pursuit. The Venerable Thich Quang Do is such a person.”. Câu này xin được tạm dịch như sau: “Giải thưởng Nobel Hòa Bình, hơn bất cứ biểu tượng quốc gia hoặc quốc tế nào khác, bảo tồn giá trị của nền hòa bình, khuyến khích công bằng xã hội, và vinh danh những người có đủ can đảm, bất chấp nguy hiểm cho đời sống, tính mạng và tự do của mình để theo đuổi những giá trị đó. Hòa Thượng Thích Quảng Độ là một trong những người như vậy.” Một câu nói chí lý sau đây của Hòa Thượng Thích Quảng Độ cũng đã được trích dẫn trong văn thư đề cử: “Cái ác không thể nào tồn tại mãi được. Đó là chân lý đã được lịch sử chứng minh.” Cuộc vận động cho Hòa Thượng Thích Quảng Độ lãnh giải Hòa Bình năm 2000 đã bắt đầu khắp các nơi khác như tại Âu Châu và Úc. Trong nhiều thập niên vừa qua, Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã tranh đấu bất bạo động để bênh vực những quyền căn bản của con người và sự tự do tín ngưỡng. Ngài đã bị ngồi tù, quản thúc tại gia, đi lãnh nạn, rồi lại bị cầm tù chỉ vì biện hộ cho nhân quyền. Tin ngài được đề cử lãnh giải Nobel Hòa Bình là một tin vui cho mọi người dân Việt-Nam, ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Nhân dịp này, tác giả xin viết về lịch sử và ý nghĩa của giải Nobel Hòa Bình.
Những Cá Nhân Đã Được Trao Giải Nobel Hòa Bình Từ Năm 1901 Đến Nay
Tiến Sĩ Nguyễn Anh Tuấn có viết một bài khá đầy đủ chi tiết trên tờ bán nguyệt san Ngày Nay (số 424, ngày 1.12.1999) về tổ chức và hoạt động của Hàn Lâm Viện Thụy Điển và giải Nobel về Khoa Học, Kinh Tế và Văn chương. Bài này sẽ chú trọng về giải Nobel Hòa Bình. Cũnh như những giải Khoa-Kọc và Văn Chương, Giải Nobel Hòa Bình đầu tiên được trao vào năm 1901. Riêng về giải Kinh-Tế mãi đến năm 1969 mới được Viện Nobel cấp phát. Giải Nobel này do Sveriges Riksbank (Bank of Sweden) thiết lập vào năm 1968 để kỷ niệm 300 năm thành lập. Hai người đầu tiên được giải Nobel Hòa Bình là các ông Jean Henri Dunant, người Thụy Sĩ, sáng lập ra Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế và là người khởi công soạn ra Hiệp Ước Geneva và ông Frederic Passy, người Pháp, sáng lập viên và là chủ tịch của Hội Pháp Quốc Hòa Giải Giữa Các Quốc Gia. Trong số 106 người và tổ chức đã được trao giải Nobel Hòa Bình cho đến nay, có một số từng là nguyên thủ quốc gia như Tổng Thống Hoa-Kỳ Theodore Roosevelt (1906), Thủ Tướng Bỉ August M. Francois Beernaert (1909), Tổng Thống Hoa-Kỳ Thomas Woodrow Wilson (1919), Thủ Tướng Pháp Leon Victor Auguste Bourgeois (1920), Thủ Tướng Karl H. Branting (1921), Thủ Tướng Đức Willy Brandt (1971), Tổng Thống Ai Cập Anwar Al-Sadat (1978), Thủ Tướng Do Thái Menachem Begin (1978), Tổng Thống Ba-Lan Leszek Walesa (1983), Tổng Thống Costa Rica Oscar Arias Sanchez (1987), Tổng Thống Nga Mikhail S. Gorbachev (1990), Tổng Thống Nam Phi Frederick Willem de Klerk (1993), Thủ Tướng Do Thái Yitzhak Rabin (1994), và Chủ Tịch Chính Quyền Palestinian Yassir Arafat (1994).
Các Vị Lãnh Đạo Tôn Giáo Được Trao Giải Hòa Bình
Trong số cá nhân được lãnh giải Nobel Hòa Bình, có một số là những nhà lãnh đạo tôn giáo, hoạt động cho nhân quyền và xã hội như Đức Tổng Giám Mục Lars Olof J. Soderblom, người Thụy Điển (1930), Cha George Pire, người Bỉ (1958), Dr. Martin Luther King Jr., người Mỹ (1964), Mẹ Teresa, gốc người Albania, quốc tịch Ấn Độ (1979), Đức TGM Desmond Tutu, người Nam Phi (1984) và Đức Dalai Lama thứ 14, người Tây Tạng (1989), Đức Giám Mục Carlos Felipe X. Belo (1996). Chúng ta hi vọng rằng Hòa Thượng Thích Quảng Độ sẽ được chọn lãnh giải Nobel Hòa Bình cho năm 2000. GS Đoàn Viết Hoạt tin rằng việc đề cử Hòa Thượng Thích Quảng Độ lãnh giải Nobel Hòa Bình là “một nỗ lực sáng suốt và có ý nghĩa. Sự kiện này cho thấy thế giới đã công nhận và ủng hộ phong trào đấu tranh bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền ở Việt-Nam... Nỗ lực này sẽ đem đến niềm vinh dự cho mọi người Việt ở trong cũng như ở ngoài nước.” Chúng ta còn nhớ Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh là một nhà tu hành Phật giáo Việt-Nam đầu tiên được đề cử lãnh giải Nobel Hòa Bình vào năm 1967. Người đề cử Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh là Mục Sư Martin Luther King, Jr. Tuy nhiên, trong hai năm liền 1966-67 không ai được chọn để lãnh giải Nobel Hòa Bình.
Những Phụ Nữ Được Trao Giải Nobel Hòa Bình
Trong hơn nửa thế kỷ đầu, từ năm 1901 cho đến 1960, hầu hết giải Nobel Hòa Bình đều được trao cho những người ở Âu Châu và Bắc Mỹ với một ngoại lệ là Bộ Trưởng Ngoại Giao Lamas của Á Căn Đình. Từ năm 1960 trở về sau, giải Nobel Hòa Bình dần dần trao cho khắp nơi trên thế giới. Có rất ít phụ nữ đoạt được giải này. Cho tới nay chỉ mới có 10 người thuộc phái nữ được trao giải Nobel Hòa Bình trong đó có những người nổi tiếng như văn sĩ Bertha von Suttner của Áo (1905), Mẹ Teresa của Ấn Độ (1979), Aung San Suu Kyi của Miến Điện (1991), Rigoberta Menchu Tum của Guatemala (1992), và Jody Williams của Hoa-Kỳ (1997). Bà Bertha von Suttner là người đàn bà đầu tiên được giải Nobel Hòa Bình. Bà là một nhân vật nổi tiếng trong phong trào hòa bình và mạnh mẽ chống lại việc tranh đua sản xuất vũ khí. Một trong những cuốn sách nổi tiếng của bà là cuốn “Lay Down Your Arms”. Bà làm quản gia và thư ký cho ông Nobel trong một thời gian ngắn với cái tên là Bá Tước phu nhân Bertha Kinsky. Sau đó bà trở về Áo và lập gia đình với Bá Tước Arthur von Suttner. Mặc dù vậy bà vẫn giữ liên lạc với ông Nobel và tư tưởng yêu chuộng hòa bình của bà Suttner đã ảnh hưởng tới ông Nobel rất nhiều và đã khiến ông lập ra giải Hòa Bình.
Những Cơ Quan Được Trao Giải Nobel Hòa Bình
Trong nhiều trường hợp giải Nobel Hòa Bình được trao cho các cơ quan phụng sự hòa bình như Viện Công Pháp Quốc Tế (1904), Văn Phòng Thường Trực Quốc Tế Phục Sự Hòa Bình (1910), Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế (1917, 1944, 1963), Văn Phòng Quốc Tế Nansen Phục Vụ Dân Tị Nạn (1938), Hội Đồng Quaker Phục Vụ Bạn Hữu (1947), Ủy Ban Quaker Hoa-Kỳ Phục Vụ Bạn Hữu (1947), Văn Phòng Cao Ủy Tị Nạn Liên-Hiệp-Quốc (1955, 1981), Quỹ Liên-Hiệp-Quốc Phục Vụ Trẻ Em (1965), Tổ Chức Lao-Động Quốc Tế (1969), Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế (1977), Tổ Chức Y Sĩ Thế Giới Ngăn Ngừa Chiến Tranh Nguyên Tử (1985), Lực Lượng Bảo Vệ Hòa Bình của Liên Hiệp Quốc (1988) , Chiến Dịch Quốc Tế Vận Động Cấm Xử Dụng Mìn (1997), và Hội Y Sĩ Không Biên Giới (1999). Như chúng ta thấy có một số tổ chức được lãnh giải Nobel Hòa Bình nhiều lần như Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế và Văn Phòng Cao Ủy Tị Nạn Liên-Hiệp-Quốc. Về cá nhân thì chưa ai được lãnh quá một lần cả.
Giá Trị Về Tiền Bạc Của Giải Nobel
Có những năm giải Nobel Hòa Bình không được trao cho ai cả vì lý do chiến tranh hoặc không có người xứng đáng. Trong trường hợp đó, số tiền không dùng tới được bỏ vào quỹ chính của Ủy Ban Quản Trị Quỹ Nobel (Nobel Foundation) hoặc bỏ vào lại quỹ đặc biệt để dành làm giải thưởng. Nếu năm nào có trên một người được chọn lựa, thì số tiền thưởng sẽ được chia đều cho những người được thắng giải. Tuy nhiên, luật lệ của Ủy Ban Quản Trị Quỹ Nobel có nói rõ rằng trong mọi trường hợp, giải thưởng không được chia cho quá ba người. Số tiền thưởng cho mỗi giải Nobel đều như nhau cho mỗi năm. Trong năm 1999 mỗi giải trị giá 7.9 triệu đồng Thụy Điển Krona, tương đương khoảng gần 1 triệu Mỹ kim. Tiến sĩ Alfred Bernard Nobel, người Thụy Điển, đã viết di chúc ngày 27.11.1895 để sáng lập ra giải thưởng mang tên ông nổi tiếng và giá trị này. Ông Nobel sinh ngày 21.10.1833 tại Stockholm. Cha ông là một kỹ sư và một nhà sáng chế. Mẹ ông xuất thân từ một gia đình giầu có. Cha ông làm giầu qua nhiều ngành kỹ nghệ khác nhau như xây cất, sản xuất võ khí và quân cụ, và dầu hỏa. Ông Nobel rất thích thơ, văn chương và thông thạo năm ngôn ngữ là Thụy Điển, Nga, Pháp, Anh và Đức. Cha ông muốn ông tham gia vào sự nghiệp trong ngành kỹ sư của cha ông, nên gửi ông đi nhiều nước kể cả Hoa-Kỳ để học về ngành kỹ sư hóa học. Tại Paris ông Nobel gập một nhà hóa học trẻ tuổi người Ý tên là Ascanio Sobrero. Trước đó ba năm ông này đã sáng chế ra chất nitroglycerine. Sau nhiều năm nghiên cứu, ông Nobel đã thành công trong việc chế tạo một vật liệu để dùng trong kỹ nghệ mà ông đăng ký là dynamite được chế tạo từ chất nitroglycerine pha trộn với silica. Dynamite rất tiện dụng trong kỹ nghệ xây cất. Ông rất bận rộn xây cất nhà máy và phòng thí nghiệm ở rất nhiều nơi trong trên 20 nước, nên dùng rất nhiều thì giờ để di chuyển. Ông Nobel không bao giờ lập gia đình. Văn Sĩ kiêm Thi Sĩ Victor Hugo gọi ông là một lãng tử giầu nhất của Âu châu. Ủy Ban Quản Trị Qũy Nobel được thành lập sau khi ông Nobel đã qua đời. Số tiền khá nhiều của ông để lại được bỏ một quỹ. Tiền trong quỹ được đem ra đầu tư và tiền lời kiếm được chia đều ra năm phần để làm năm giải thưởng cho năm ngành khác nhau: vật lý, hóa học, sinh lý học hoặc y khoa, văn chương, và hòa bình.
Các Cơ Quan Phụ Trách Giải Nobel
Hai giải thưởng về hai ngành vật lý và hóa học do Viện Khoa Học Thụy Điển phụ trách. Về giải thưởng cho ngành sinh lý học và y khoa do Viện Nghiên Cứu Karolinska tại Stockholm quyết định. Về văn chương do Hàn Lâm Viện Thụy Điển lựa chọn. Mặc dù là một người dân Thụy Điển, ông Nobel lại muốn giao giải Hòa Bình cho nước Na-Uy nhỏ bé ở cực bắc Âu Châu phụ trách. Một tổ chức gọi là Ủy Ban Nobel Na-Uy (Nowegian Nobel Committee) gồm năm người do Hội Đồng Quốc Gia Na-Uy (Storting), một thứ quốc hội dưới chính thể cộng hòa, chỉ định để cứu xét về giải thưởng Hòa Bình. Các thành viên của Ủy Ban Nobel Na-Uy có nhiệm kỳ là sáu năm và có thể được tái nhiệm. Tuy được chỉ định, nhưng Ủy Ban Nobel Na-Uy hoàn toàn độc lập với Hội Đồng Quốc Gia Na-Uy. Viện Nobel Na-Uy (Nowegian Nobel Institute) được thành lập vào năm 1904 để giúp Ủy Ban Nobel Na-Uy trong việc tuyển chọn người vào Ủy Ban Nobel Na-Uy, nhận thư đề cử và chọn người lãnh giải thưởng, tổ chức chương trình Nobel hàng năm tại Oslo, và điều hành thư viện Nobel đặc biệt chuyên sưu tầm sách báo và tài liệu về đề tài hòa bình. Vị giám đốc của Viện Nobel Na-Uy kiêm nhiệm chức vụ Thư Ký cho Ủy Ban Nobel Na-Uy. Ông Alfred Nobel không bao giờ giải thích cho ai biết tại sao ông lại muốn nhờ Hội Đồng Quốc Gia Na-Uy chỉ định một ủy ban để phụ trách giải Nobel Hòa Bình. Người ta phỏng đoán rằng quyết định của ông dựa vào hai yếu tố. Thứ nhất là Hội Đồng Quốc Gia Na-Uy là một cơ chế quốc gia đầu tiên ủng hộ phong trào hòa bình thế giới. Thứ hai là Na-Uy là một quốc gia liên bang với Thụy Điển, không có một chính sách ngoại giao riêng biệt, ít bị thiên lệch bởi các áp lực chính trị. Để bảo vệ vai trò độc lập của Ủy Ban Nobel Na-Uy, Hội Đồng Quốc Gia Na-Uy vào năm 1937 quyết định rằng nhân viên của chính phủ không được gia nhập Ủy Ban Nobel Na-Uy. Kể từ năm 1977 về sau, các hội viên đương thời của Hội Đồng Quốc Gia Na-Uy cũng không được lựa chọn vào Ủy Ban Nobel Na-Uy.
Cách Thức Tuyển Chọn Người Lãnh Giải Nobel
Tiến sĩ Alfred Bernard Nobel trong di chúc đã dặn dò là việc chọn người lãnh giải thưởng phải dựa theo tiêu chuẩn giá trị, chứ không được xét đến quốc tịch của những người được đề cử, bất kể là người đó thuộc xứ Scandinavia hay không. Giải Nobel chỉ được cấp cho những người còn sống mà thôi. Tuy nhiên giải thưởng Nobel sẽ vẫn được trao nếu người được thắng giải bị chết sau khi đã được chọn. Trường hợp ông Tổng Thư Ký Liên-Hiệp-Quốc Dag Hammarskjold, người Thụy Điển, là một ngoại lệ. Ông được cấp giải Nobel Hòa Bình của năm 1961 sau khi đã chết. Ông Dag Hammarskjold bị tử nạn máy bay vào ngày 18.9.1961 ở gần biên giới giữa Katanga (một vùng thuộc phía đông nam của Zaire nay gọi là Democratic Republic of Congo) và North Rhodesia (bây giờ gọi là Zambia), khoảng một tháng trước khi Ủy Ban Nobel Na-Uy công bố giải Nobel cho năm 1961. Muốn được cứu xét để lãnh giải Nobel, những thư đề cử ứng viên phải gửi đến Ủy Ban Nobel Na-Uy vào hạn chót là ngày 1 tháng 2. Những người được đề cử trễ sẽ được cứu xét vào năm sau. Trong những năm gần đây, mỗi năm có trên 100 người được đề cử lãnh giải Hòa Bình. Ủy Ban Nobel Na-Uy thường nhận được nhiều hơn 100 lá thư đề cử vì nhiều người đề cử cùng một người. Những người sau đây được quyền đề cử ứng viên cho giải Hòa Bình: (1) Thành viên cũ và đương thời của Ủy Ban Nobel Na-Uy và cố vấn của Viện Nobel Na-Uy; (2) Dân biểu và nghị sĩ quốc hội, nhân viên nội các của các chính phủ, và nhân viên hội đồng liên hiệp nhiều quốc gia; (3) Thành viên của Tòa Án Hoà Giải Thường Trực và Tòa Án Quốc Tế tại The Hague; (4) Thành viên của Văn Phòng Thường Trực Quốc Tế Phục Vụ Hòa Bình; (5) Thành viên của Viện Công Pháp Quốc Tế; (6) Giáo sư đang dậy học tại các đại học về luật khoa, chính trị, lịch sử và triết học; (7) Những người đã được giải Nobel Hòa Bình. Cũng nên nhấn mạnh cho rõ là Ủy Ban Nobel không cứu xét đơn cá nhân tự xin tranh các giải Nobel kể cả giải Hòa Bình.
Kết quả thường được công bố vào ngày thứ Sáu giữa tháng Mười, không nhất thiết rơi vào một ngày nhất định trong tháng. Giải thưởng sẽ được trao đúng vào ngày 10 tháng 12 mỗi năm là ngày ông Alfred Nobel chết vào năm 1896. Các lễ trao giải thưởng khoa học và văn chương đều được tổ chức tại thủ đô Stockholm dưới sự chủ tọa của Vua Thụy Điển. Nhà Vua đích thân trao giải thưởng cho những người đoạt giải. Lễ trao giải Hòa Bình được tổ chức tại thủ đô Oslo của Na-Uy dưới sự chủ tọa Vua và Hoàng Hậu Na-Uy nhưng giải thưởng được trao bởi Chủ Tịch Ủy Ban Nobel Na-Uy. Giải Nobel được coi là một giải cao quý nhất thế giới. Cho nên ngày 10 tháng 12 mỗi năm trở thành một ngày mà báo chí, các hệ thống phát thanh và truyền hình trên khắp thế giới đổ về Stockholm và Oslo để ghi lại những hình ảnh lịch sử nói lên sự tiến bộ về khoa học, văn chương và hòa bình của nhân loại.
Giải Hòa Bình Rắc Rối Nhất Trong Các Giải Nobel
Trong các giải Nobel, giải Hòa Bình thường gây nhiều tranh luận nhất so với các giải văn chương và khoa học vì tính cách chính trị của nó. Rất hãn hữu mới có trường hợp mọi người có thể đều đồng ý với sự lựa chọn của Uỷ Ban Nobel của Na-Uy như sự lựa chọn Mẹ Teresa chẳng hạn. Đối với tất cả những trường hợp khác kể cả những trường hợp người thắng giải khá nổi tiếng thì việc lựa chọn không ít thì nhiều cũng gây bàn cãi. Như trên đây đã nói, giải Nobel Hòa Bình đầu tiên cấp vào năm 1901 cho ông Henri Dunant, người Thụy Sĩ, chủ tịch và là sáng lập viên của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế và ông Frederic Passy, người Pháp, chủ tịch và là sáng lập viên Hội Pháp Quốc Hòa Giải các Quốc Gia đã gây bàn cãi sôi nổi. Những người ủng hộ ô. Passy cho rằng Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế không làm gì cả để ngăn ngừa chiến tranh và chỉ làm bớt sự đau khổ khi chiến tranh đã bùng nổ. Những người ủng hộ ô. Dunant bác bỏ lập luận đó. Những thí dụ khác có thể lấy ra trong lịch sử cận đại như trường hợp Mục Sư Martin Luther King, Jr., ông Nelson Mandela và Tổng Thống F.W. de Klerk của Nam Phi, nhà Vật Lý Nguyên Tử học Andrei Sakharov và Tổng Thống Mikhail Gorbachev của Nga Sô. Sự đắc thắng của Mục Sư Martin Luther King, Jr. đã làm xúc động những người Mỹ da trắng không ít. Sự lựa chọn Andrei Sakharov xúc phạm đến các nhà lãnh đạo Sô Viết không ít. Nhiều người Nga không vui vẻ về sự thắng giải Hòa Bình của cựu Tổng Thống Mikhail Gorbachev của họ. Người Nam Phi da trắng cũng không ưa thích gì về sự đắc thắng của ông Nelson Mandela, để rồi sau này ông trở thành Tổng Thống của Nam Phi. Lúc thắng giải vào năm 1993 ông là Chủ Tịch của tổ chức African National Congress viết tắt là ANC, mới được trả tự do được ba năm sau 26 năm bị giam tù. Uỷ Ban Nobel của Na-Uy, bất kể đến những chống đối của các phe nhóm đối nghịch, hãnh diện là đã vượt qua được nhiều khó khăn đó, để làm những quyết định đúng đắn.
Giải Nobel Hòa Bình Rắc Rối Nhất Thế Kỷ
Giải Nobel Hòa Bình gây nhiều sôi nổi nhất trong cả gần một thế kỷ là giải cấp vào năm 1973 cho hai chính khách là hai ông Lê Đức Thọ và Henry A. Kissinger. Cả hai ông là trưởng phái đoàn thương thuyết lần lượt của Bắc Việt và Hoa-Kỳ tại Hội Nghị Paris. Ông Thọ, theo lệnh của Bộ chính Trị, đã từ chối không nhận giải thưởng. Ô. Kissinger chấp thuận nhận giải thưởng nhưng không bay qua Thụy Điển để đích thân lãnh với lý do là bận nhiều công vụ khác. Ông đã nhờ Đại Sứ Byrne đại diện ông để lãnh giải thưởng. Hai ông Thọ và Kissinger đã được chọn cấp giải Nobel Hòa Bình vì sau gần bốn năm làm việc dòng dã đã đạt được một thoả hiệp ở Paris để thực hiện một cuộc ngưng chiến và hi vọng cuối cùng sẽ đưa tới một nền hòa bình theo sự mong ước của Ủy Ban Nobel Na-Uy. Hiệp Định Paris được hai ông Thọ và Kissinger ký tắt vào ngày 23.1.1973. Cả bốn phe chính thức ký vào Hiệp Định ngày 27.1.1973 với một cuộc ngưng bắn trên toàn cõi Việt-Nam có hiệu lực vào ngày hôm sau. Quân đội Mỹ đã bắt đầu dần dần rút khỏi Việt-Nam từ ngày 8.6.1969 trong khoảng thời gian cuộc hòa đàm tại Paris mới bắt đầu được năm tháng. Đến cuối năm 1972, Hoa-Kỳ chỉ còn lại 27,000 binh sĩ và vào ngày 29.3.1973 người lính Mỹ cuối cùng đã rời khỏi Việt-Nam. Ông Lê Đức Thọ là người đầu tiên trong lịch sử đã từ chối không nhận giải Nobel. Ông đưa ra lý do là Việt-Nam chưa thật sự có hòa bình. Ủy Ban Nobel Na-Uy giải thích rằng ông muốn đợi xem tình hình Việt-Nam có thay đổi như thoả hiệp Paris ấn định hay không. Vì vậy Ủy Ban này theo luật đã giữ giải thưởng cho ô. Thọ gần một năm, cho đến hết ngày 1.10.1974 để rồi một nửa số tiền thưởng của tổng số tương đương với khoảng $90,000 cùng với chứng thư và huy chương không bao giờ được lãnh ra. Thật đúng như ông Thọ nói, trong thời gian 1960-75 đất nước chưa có hòa bình do sự kiện là giới lãnh đạo miền Bắc muốn duy trì chiến tranh để lấy nốt miền Nam và ngay cả tới bây giờ không người dân nào ở trong nước từ thành thị đến thôn quê cảm thấy được sống yên ổn. Các nhà lãnh đạo Cộng Sản Hà-Nội, theo kế hoạch đã định trước, đã kéo dài chiến tranh bằng súng đạn để nuốt gọn miền Nam vào hai năm sau, áp đặt chế độ Cộng Sản trên cả hai phần đất của Việt-Nam. Tại lễ phát giải Nobel Hòa Bình vào ngày 10.12.1973 tại Oslo, bà Aase Lionaes, Chủ Tịch của Ủy Ban Nobel Na-Uy đã tuyên bố với sự vắng mặt của cả hai ông Thọ và Kissinger một đoạn nguyên văn bằng Anh ngữ như sau:
“We are under no illusion that the differences between systems and ideologies can be ignored; but the (Norwegian) Nobel Committee has been anxious to emphasise that in a world yearning for peace, no one can assume the right to force his particular system on others by armed might. Nations with different systems of government must be able to live together in peace and solve their controversies by negotiation.”
Đoạn này được tạm dịch như sau: “Chúng tôi không có ảo tưởng rằng những khác biệt về thể chế và ý thức hệ có thể bỏ qua một bên; nhưng Ủy Ban Nobel rất băn khoăn để nhấn mạnh rằng trong một thế giới khao khát hòa bình, không ai có quyền dùng võ lực để buộc người khác phải theo một thể chế đặc biệt nào. Những quốc gia với thể chế chính trị khác nhau phải biết sống chung hòa bình với nhau và phải biết giải quyết những bất đồng bằng cách thương thuyết.”
Thật sự ông Lê Đức Thọ có phục vụ cho hòa bình hay không để xứng đáng với giải Nobel Hòa Bình" Sau tháng 4, 1975, dưới sự chỉ đạo của hai ông Lê Đức Thọ và Lê Duẩn, một cuộc nội chiến khác đã bắt đầu bằng cách đẩy hàng trăm ngàn quân cán chính của chế độ cũ ở miền Nam vào cái trại tù và vùng kinh tế mới. Các ông cũng bỏ tù luôn cả nhiều đồng chí cũ của các ông ở cả hai miền vì họ nhận thức được những sai lầm của các ông và của chế độ Cộng Sản lỗi thời. Đến nay, tiếng súng đã êm, nhưng người dân vẫn chưa được sống trong hòa bình, vẫn nơm nớp lo sợ bị đói khát, bị bắt bớ giam cầm bất cứ lúc nào.
Trường hợp của ông Henry Kissinger còn rõ hơn. Như đã nói ở trên, ô. Kissinger đại diện cho quyền lợi của Mỹ, phải cứu nước Mỹ ra khỏi tình trạng xa lầy ở Việt-Nam do chính sách của những người tiền nhiệm của ông gây ra. Hoa-Kỳ đã lật đổ một chính phủ dân sự cuối cùng tương đối có tư cách ở miền Nam, dưới sự hợp tác của các Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Chánh Thi để dễ dàng ào ạt đưa quân vào Việt-Nam bắt đầu từ năm 1965 rồi hấp tấp rút quân vào bốn năm sau. Như vậy việc cho hai ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger giải thưởng Nobel Hòa Bình 1973 là một sai lầm. Lúc đó Việt-Nam chưa thực sự có hòa bình. Hai phe chỉ mới đạt được một thỏa ước ngưng bắn trên giấy tờ mà thôi. Những vi phạm đã xẩy ra ngay khi những chữ ký chưa ráo mực vì có sự khác biệt trầm trọng ngay cả ở trong Ủy Ban Quốc Tế Giám Sát Đình Chiến (International Commission of Control and Supervision) và Ủy Ban Quân Sự Hỗn Hợp Bốn Bên (Four-Party Joint Military Commission). Hiệp Định Paris chỉ vọn vẹn làm được hai việc như ông John Negroponte, Phụ Tá của ông Kissinger tại Paris đã nói là lấy lại được tù binh và chấm dứt sự can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa-Kỳ vào chiến tranh Việt-Nam. Câu tuyên bố đầy đủ của ông Negroponte như sau: “We got our prisoners back; we were able to end our direct military involvement. But there were no ostensible benefits for Saigon to justify all of the enormous effort and bloodshed of the previous year.” Vì biết Hoa-Kỳ không thể mang quân trở lại, nhất là trong tình trạng nội bộ hết sức chia rẽ và rối ren, nếu Hòa Ước Paris tan vỡ như bốn phe đã hứa, Cộng Sản Bắc Việt ồ ạt mang thêm quân và chiến cụ vào miền Nam để dự định thực hiện cuộc toàn thắng vào năm 1976. Nhưng thành công đã đến với họ sớm hơn dự tính.
Sự sai lầm ở mức trầm trọng khiến hai thành viên trong số năm người trong Ủy Ban Nobel Na-Uy do Hội Đồng Quốc Gia Na-Uy chỉ định để chọn nguời lãnh giải Nobel Hòa Bình 1973 đã quyết định từ chức. Thông thường Ủy Ban Nobel Na-Uy có lưu trữ và phổ biến tiểu sử chi tiết của những người được giải Nobel. Nhưng trong trường hợp của ông Lê Đức Thọ, trên tờ tiểu sử của ông người ta chỉ ghi vọn vẻn như sau: “Le Duc Tho, 1973 Nobel Laureate (declined the prize). Back ground: born: 1910; Residence: Democratic Republic of Vietnam.”. Trong bài diễn văn đọc tại lễ trao giải thưởng Nobel Hòa Bình 1973, bà Chủ Tịch Ủy Ban Nobel Na-Uy Aase Lionaes chỉ vọn vẹn nhắc đến lý do ông Thọ không nhận giải Nobel trong có bẩy dòng. Người ta không biết ông là ai. Trong khi đó bài diễn văn của Bà Aase Lionaes dài chín trang, bà đã dùng hết bốn trang để giới thiệu ông Kissinger. Buồn thay ông Thọ lại là người Việt-Nam duy nhất được giải Nobel cho đến nay. Đây có thể không phải là một sai lầm duy nhất trong lịch sử gần một thế kỷ của giải Nobel Hòa Bình. Trường hợp thứ hai nhiều người đã nói tới là trường hợp ông Mahatma Gandhi mà người Việt-Nam hay gọi là thánh Gandhi để tỏ lòng ngưỡng mộ và cả thế giới biết đến, nhưng ông không bao giờ được trao giải Nobel Hòa Bình cả.
Ảnh Hưởng Của Giải Nobel Hòa Bình Đối Với Nhân Loại
Giải Nobel Hòa Bình đã có một lịch sử gần một thế kỷ. Ảnh hưởng của nó như thế nào đối với nền hòa bình của nhân loại. Hiển nhiên là Giải Nobel Hòa Bình đã không chấm dứt được chiến tranh trên quả địa cầu này. Trong gần 100 năm qua, thế giới đã trải qua hai cuộc đại chiến. Sau đó là chiến tranh Trung Đông, Triều Tiên rồi đến Việt-Nam, và rất nhiều chiến tranh hơn giữa các quốc gia tại các vùng trên các lục địa Á châu, Phi châu, Trung Đông, và Âu châu, chưa kể đến những cuộc nội chiến lớn nhỏ. Nguyên nhân gây ra chiến tranh là sự tranh giành quyền lợi, quyền lực, và ảnh hưởng và khác biệt ý thức hệ và thể chế chính trị và không chấp nhận sự dị biệt về văn hóa giữa các dân tộc. Những nguyên nhân đó vẫn còn tồn tại. Các tôn giáo đã có cả ngàn năm trước đó cũng không diệt được chiến tranh, nói chi đến giải Nobel Hòa Bình. Để giúp phát triển nền hòa bình của thế giới, giải Nobel Hòa Bình nhắm làm giảm bớt những nguyên nhân gây ra chiến tranh, khuyến khích các cá nhân, tổ chức tư nhân, và chính phủ có những hoạt động phục vụ cho nền hòa bình của nhân loại. Tuy chiến tranh chưa bị tiêu diệt, nhưng nhân loại sau Thế Chiến thứ Hai đã được hưởng một nền hòa bình tương đối lâu dài nhất từ trước đến nay. Nhân loại đã biết dùng ngoại giao và thương mại để trao đổi và giải quyết những khác biệt, nhờ vào những tiến bộ vượt bực của kỹ thuật thông tin và chuyên chở ngày nay.
Giải Nobel Hòa Bình không làm hết chiến tranh, nhưng ảnh hưởng tốt đẹp và quan trọng của nó không ai có thể chối cãi được. Việc trao giải thưởng Nobel Hòa Bình mới đây vào năm 1996 cho Giám Mục Carlos Belo và ô. Jose Ramos-Horta vì cuộc tranh đấu dành quyền tự quyết cho dân tộc East Timor đã gây ảnh hưởng không ít đối với chính sách của Nam Dương, Hoa-Kỳ, Liên Hiệp Âu Châu và Liên-Hiệp-Quốc (LHQ) về vấn đề East Timor. Sau khi nền kinh tế của Nam-Dương suy xụp trầm trọng vào các năm 1997-98, tình hình chính trị của Nam-Dương đã thay đổi hẳn. Quốc gia này đã đồng ý cho tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 8, 1999 tại East Timor. Quân đội của LHQ đã được gửi tới East Timor để chấm dứt chém giết hỗn loạn tại đây sau khi kết quả của cuộc trưng cầu dân ý được công bố với đa số dân East Timor muốn lãnh thổ này độc lập với Nam Dương. Ủy Ban Hành Chánh của LHQ để Quản Trị Giai Đoạn Chuyển Tiếp đã được thành lập tại East Timor. Một thí dụ khác liên quan đến Miến Điện. Sau khi người đàn bà mảnh khảnh Aung San Suu Kyi được trao giải Nobel Hòa Bình vào năm 1991, Thế Giới đã chú ý và biết nhiều hơn về cuộc tranh đấu đòi tự do, dân chủ, và nhân quyền của bà và dân tộc Miến Điện. Sau nhiều năm không có một phản ứng nào, LHQ đã lên tiếng kết án chế độ quân phiệt của Miến Điện. Tiếp theo ngay sau đó chính phủ của nhiều cường quốc kể cả Nhật Bản đã thay đổi chính sách ngoại giao đối với Miến Điện, chỉ trích những vi phạm nhân quyền của quốc gia này. Giải Nobel Hòa Bình không làm chế độ quân phiệt Miến Điện xụp đổ và cũng chưa làm cho bà Aung San Suu Kyi thoát khỏi cảnh giam lỏng tại nhà, nhưng đã gây rất nhiều áp lực cho giới cầm quyền ở Rangoon và làm phấn khởi những người đang tranh đấu cho nhân quyền, tự do, và dân chủ cho quốc gia Miến Điện và ở những nơi khác trên thế giới. Chúng ta hi vọng là việc chọn Hòa Thượng Thích Quảng Độ để lãnh giải Nobel Hòa Bình năm 2000 sẽ thành sự thật và mong là biến cố quan trọng này sẽ mang lại nhiều thay đổi cụ thể cho tình hình trong nước.
Tài liệu tham khảo:
1. Irwin Abrams, “Nobel Peace Prize and the Laureatis”, MacMillan Library Reference, New York, 1998.
2. Irwin Abrams, “Heroines of Peace - The Nine Nobel Women.”, Antioch University.
3. Stanley Karnow, “Vietnam A History.”, Penguin Books, 1997 edition, New York 1997.
4. Ann T. Keene, “Peace Makers : Winners of the Nobel Peace Prize.”, Oxford University Press, 1998.
5. Stanley I. Kutler, “Encyclopedia of the Vietnam War.”, Macmillan Library Reference USA, New York 1996.
6. Aase Lionaes, “The Nobel Peace Prize for 1973”, Nobel Committee of the Norwegian Storting, Oslo 1973.
7. Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, “Các Cuộc Thương Lượng Lê Đức Thọ Kissinger Tại Paris.”.
8. Geir Lundestad, “The Nobel Peace Prize - Some Reflections.”, The Norwegian Nobel Committee, Oslo 1999
9. Yvind T. Nnesson, “The Nobel Peace Prize.”, The Norwegian Nobel Committee, Oslo 1999.
10. Nguyễn Anh Tuấn, “Giải Nobel Về Khoa-Học, Kinh-Tế Và Văn Chương Từ 1901 Tới 1999.”, Ngày Nay, Houston 1.12.1999.
Gửi ý kiến của bạn