Hôm nay,  

Từ Đại Học Tới Tàu Bệnh Viện: Đức Quốc Giúp Người Dân Việt

11/09/201400:00:00(Xem: 8345)

Trong khoảng hơn một thập niên, khởi đầu từ 1960, quốc gia trợ giúp VNCH nhiều nhất trong tinh thần nhân đạo, vô vị lợi là Cộng Hòa Liên Bang Đức Quốc (Bundesrepublik Deutschland). Các viện trợ chú trọng nhiều vào giáo dục và y tế, âm thầm không nổi bật như nhân viên giảng huấn và học cụ cho các trung học kỹ thuật, có ảnh hưởng rộng lớn với kết quả mỹ mãn song có nhiều nét bi thảm là trợ giúp đại học y khoa thuộc viện đại học Huế, giúp đỡ trầm lặng như tổ chức Làng Hòa Bình, và được biết đến rất nhiều với tàu bệnh viện Helgoland.

Đại Học Y Khoa Huế thuộc Viện Đại Học Huế khai giảng khoá đầu tiên năm 1961; vào năm 1960 đại học Freiburg, một đại học có tiếng tại miền Tây Nam Đức Quốc nhận trợ giúp với nhân viên giảng huấn, tài liệu, dụng cụ, ngân khoản, trong chương trình viện trợ văn hóa giáo dục của chính phủ Đức Quốc. Freiburg (im Breisgau) là một thành phố thuộc tiểu bang Baden-Wrttemberg, với dân số 230,000, bên sông Dreisam, cạnh Hắc Lâm (Schwarzwald), thành phố có nhiều di tích lịch sử, truyền thống văn học nghệ thuật, êm dịu, hiền lành và trí thức trong một vị trí rất đẹp với núi, rừng hòa nhịp trong thiên nhiên.

Giáo sư Horst-Guenter Krainick và phu nhân, bà Elizabetha Krainick một nhân viên điều dưỡng cao cấp, lãnh đạo phái đoàn giảng huấn, với sự phụ tá của giáo sư Raymund Disher; được biết đến rất nhiều với tài năng và đức độ nên đã thu hút thêm rất nhiều giảng sư như Bác sĩ Alois Altekoester, giảng viên, các bác sĩ đến phụ giúp đại học y khoa Huế. Bốn vị này đã bị thảm sát trong biến cố Tết Mậu Thân tại Huế vào đầu năm 1968. Năm 1991, các cựu nhân viên, các giáo sư, sinh viên của đại học y khoa Huế đến thành phố Freiburg để dựng bia, đặt vòng hoa và làm lễ tưởng niệm các vị bác sĩ nhân từ đã quá cố này. Tưởng cũng nên ghi nhận là trong khoảng thời gian từ 1968 đến sau đó, bác sĩ Daniel Trương Dũng đã du học tại đại học Freiburg, hiện ông là một chuyên gia nổi tiếng quốc tế về bệnh Parkinson's disease và cư ngụ tại Orange County, California, Hoa Kỳ.

Helgoland được hạ thủy năm 1963, chuyên chở du khách từ thành phố Cuxhaven (Hamburg) ra hòn đảo Helgoland ở Bắc Hải. Du khách ra đảo này để tránh sự ồn ào của đô thị và có thể nghỉ ngơi trong sự yên tĩnh với cảnh đẹp thiên nhiên của biển cả và núi rừng. Đây là một con tàu hạng trung sức tải là 3,000 tấn, với chiều dài 100 thước và chiều ngang 14 thước (nơi chỗ rộng nhất); vào năm 1966, sau khi được trang bị thành một tàu bệnh viện, với thủy thủ đoàn 30 người, tàu đã trải qua một hành trình dài 12,000 dặm (7,500 cây số), và cảng tới đầu tiên ở Việt Nam là Saigon. Helgoland có 150 giường cho bệnh nhân, 3 phòng mổ, có phòng hồi sinh sau giải phẫu (critical care unit), phòng cách ly (observation care unit), phòng chiếu điện (radiology), phòng khám răng (dental care), văn phòng cho dược sĩ và dược phẩm (pharmacy).

Luôn có khoảng 7-10 bác sĩ, 29-30 nhân viên y tá cùng điều dưỡng, 4 nhân viên phụ trách phòng thí nghiệm, 4 nhân viên hành chánh; dược phẩm, dược liệu, y cụ và máu được chuyển đều đặn bằng đường hàng không từ Đức Quốc sang. Tiêu chuẩn bệnh viện như được quy định cho một bệnh viện tân tiến tại Âu Châu.

Lúc đó trung bình là cứ 17,000 dân thì có một bác sĩ (dân số VNCH gần 17 triệu với khoảng 1100 bác sĩ, có 1,000 bác sĩ hành nghề, có một số không hành nghề đi vào chính trị hay làm việc khác hoặc hồi hưu).

Đến hải cảng Saigon vào tháng 9 năm 1966 và phục vụ tại đó hơn 10 tháng; sau đó tàu ra Đà Nẵng vào năm 1967 vì tình trạng tại miền địa đầu giới tuyến có nhu cầu y tế cao hơn (và tại miền Nam lúc đó chỉ có 2 hải cảng có thể tàu này cặp bến được là Saigon và Đà Nẵng), theo sự thoả thuận với chính phủ VNCH (và ngầm với phía cộng sản) tàu bệnh viện Helgoland chữa trị cho tất cả dân chúng (thường dân chứ không phải quân nhân), không hỏi lý lịch bệnh nhân và được coi như trung lập theo thoả ước Geneve về nhân đạo (Geneva International Convention).

Trong một cuộc pháo kích vào thành phố (Oct 70), một miểng đạn rơi vào cửa kính của thư viện trên tàu, sau đó đề phòng ngừa vào nhiều chiều tàu rời hải cảng ra vịnh để tránh pháo kích, buổi sáng lại cặp bến. Dân chúng gọi tàu Helgoland là "con tàu hy vọng" ("Helgoland" the "(white) ship of hope.").

Được coi là một trong những bệnh viện tân tiến nhất tại miền Nam, tàu là nơi có thể chữa trị tất cả chỉ trừ giải phẫu tim và giải phẫu óc. Các điều trị đều miễn phí. Tàu được trang bị để có thể tự túc được trong 4 tuần khi gặp trường hợp nguy cấp phải chạy ra khơi. Điều này được bàn thảo khi xảy ra biến cố Mậu Thân (Jan 1968) với sự chiếm đóng Huế của phía cộng sản trên một tháng và sát hại các giáo sư Y Khoa của đại học Freiburg đã ở lại đại học y khoa Huế và không di tản; và sau cùng chính phủ Đức Quốc quyết định cho tàu bệnh viện Helgoland ở lại như đã dự định từ lúc đầu (cho đến Dec 71). Khi chấm dứt nhiệm vụ khoảng cuối năm 1971, tàu Helgoland quay trở về Đức Quốc, đã chữa trị cho trên 11,000 bệnh nhân trên tàu.


Vì nhu cầu chẩn bệnh và chữa trị rất cao nên tàu có thiết lập chẩn y viện trên bờ tại nơi tàu đỗ để có thể khám bệnh, phát thuốc, chữa trị các trường hợp nhẹ (outpatient). Với các trường hợp nặng phải chữa trị hay giải phẫu trên tàu thì con tàu hoạt động ngày đêm, khi ở bến hay lúc chạy ra vịnh vào ban đêm để tránh pháo kích.

Các nhân viên bao gồm thuỷ thủ đoàn, y tá, điều dưỡng, các bác sĩ sau đó đã lập một hội thiện để tiếp tục trợ giúp y tế cho các trẻ em tại Việt nam. Khi rời Việt Nam vào Jan 1972, ông thị trưởng Đà Nẵng (1968-1972), đại tá Nguyễn Ngọc Khôi đã bày tỏ lòng tri ân của người dân Việt gửi đến dân tộc Đức điển hình qua việc gửi con tàu và trực tiếp qua việc điều trị cứu thương dân chúng tại Đà Nẵng và tất cả mọi người đến tàu xin trợ giúp về y tế.

blank
Tàu bệnh viện Đức quốc.

Theo tin tức từ nhật báo Sarasota Herald Tribune số Jan 17, 1972:

- 11,100 cuộc giải phẫu, mỗi tháng trung bình 300 bệnh nhân cần phải mổ

- 157,500 bệnh nhân được điều trị tại chẩn y viện dưới bến, khám bệnh, phát thuốc, về nhà, tái khám (outpatient)

- Có nhiều bệnh nhân đến tàu bệnh viện Helgoland thì bệnh tình quá trầm trọng, mọi cứu chữa đều vô hiệu, con số thương vong cao nhất là 15 người (mỗi tháng)

- Theo thoả thuận dựa theo quy ước Geneve về cứu trợ y tế (Geneva Convention) tàu chữa trị cho thường dân, song có vài trường hợp khẩn cấp khi quá nặng, tàu cũng cứu chữa cho một vài quân nhân

- Tổng cộng có 266 nhân viên y tế phục vụ trên tàu từ khi cặp bến Saigon (Sept 66), sau đó ra Đà Nẵng (Oct 67 - Dec 71), mọi nhân viên tình nguyện phục vụ 6 tháng và có thể gia hạn một lần, tổng cộng là 1 năm, một số nhỏ xin về lại Đức Quốc khi chưa hết giao kèo

- Tàu bị trúng một miểng đạn vào cửa kính thư viện vào Oct 1970

- Một bệnh viện của Đức Quốc được thiết lập sau đó trên bờ (Knights of Malta) và tuyển dụng hầu hết các nhân viên y tế đã được huấn luyện và phục vụ trên tàu Helgoland (65)

- Đại tá thị trưởng Nguyễn Ngọc Khôi (1968-1972) đã tỏ lòng tri ân dân tộc Đức đã trợ giúp nhân đạo dân Việt quả việc gửi tàu Helgoland, ông nhấn mạnh "dân Việt sẽ mãi mãi ghi nhớ nghĩa cử này" (the mayor of Da Nang, colonel Nguyen Ngọc Khoi says" we will never forget the Helgoland, we will never forget what the German people have done for us")

Trải qua thế chiến, chịu những hệ lụy của chiến tranh với tan nát, khổ đau, chia lìa, mất mát, cộng thêm sự nhục nhằn của một dân tộc bại trận, người dân Đức Quốc đã cần cù chăm chỉ vươn lên, và sau 15 năm khi trở thành cường quốc kinh tế trong một quốc gia dân chủ tự do, đã thông cảm và hiểu rõ chúng ta đang trong chiến tranh, đã rộng lượng và quảng đại giúp đỡ, những giúp đỡ tại quê hương Việt Nam: nhân đạo (tàu bệnh viện Helgoland) và giáo dục (với những hậu quả bi thương tại Huế) và những trợ giúp cho sinh viên du học tại đại học Freiburg (cho giảng viên, giáo sư từ đại học y khoa Huế) và dành một số chỗ tại các đại học cho sinh viên du học đi từ VNCH, đó là những nghĩa cử mà dân tộc Việt sẽ ghi nhớ mãi mãi và tri ân dân tộc Đức.

Không ai có thể ngờ và đoán trước được là chưa tới 10 năm sau ngày tàu bệnh viện Helgoland (1972) về nước thì một đoàn tàu khác Cap Anamur (1979) lại ra khơi lần này không cặp bến song ở ngoài khơi của Việt Nam để vớt đồng bào vượt biên sau biến cố 30 tháng tư năm 1975. Hai con tàu định mệnh đều xuất phát từ Bắc Hải (Hamburg) và người dân Đức Quốc lại thêm một lần mở rộng vòng tay cứu giúp người dân ty nạn đến từ Việt Nam; cứu giúp khoảng trên 10,000 người đang lênh đênh trên biển Đông, giúp họ được định cư trên lãnh thổ của Đức Quốc, sau đó được xum họp với các thân nhân trong chương trình đoàn tụ gia đình. Vào tháng 8 năm 2014 tại thành phố Hamburg đã có buổi lễ kỷ niệm 35 năm con tàu Cap Anamur đầu tiên ra khơi, tại thành phố này cũng có bia tưởng niệm thuyền nhân, trong buổi lễ này có sự hiện diện của tiến sĩ Neudecker (sau thế chiến thứ hai là người ty nạn phải rời bỏ thành phố sinh ra và lớn lên (Gdansk bây giờ thuộc Ba Lan) để di cư qua Tây Đức), người sáng lập ra phòng trào "một con thuyền cho Việt Nam " (ein Ship fuer Vietnam) và chỉ trong một thời gian ngắn vài tuần là quyên được hàng triệu Đức Mã (đơn vị tiền tệ của Đức Quốc: Deutsche Mark), hồi đó chưa có đơn vị tiền tệ Euro, nhờ lòng hảo tâm của dân tộc Đức và thuê được con tàu Cap Anamur đầu tiên để ra khơi cứu giúp các người đang từ Việt Nam vượt biển tìm tự do, bác sĩ Roesler một người gốc Việt, được nhận từ một viện mồ côi ở Việt Nam khi mới có vài tháng (1973), sau trở thành phó thủ tướng và bộ trưởng kinh tế cùng thuật lý của Đức Quốc (2011-2013) cũng hiện diện.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.