Hôm nay,  

Về Một Tản Văn Dị Thường

2/6/201500:00:00(View: 6800)

Tôi có nhiều kỷ niệm với văn học từ trung học, thời của những lớp đệ thất (lớp 6) trở lên. Văn học với tôi là hình ảnh một cô giáo đứng trước lớp, tay cầm một cuốn truyện, có lúc một cuốn thơ, và có lúc một sách giáo khoa... Thời đó Việt văn chia ra làm đôi, gọi là cổ văn và tân văn. Và giờ văn nào cũng chắp cánh cho tôi bay bổng, nơi một thế giới được dựng lên từ những lượn sóng muôn trùng của chữ.

Cô giáo đọc dịu dàng, các âm vang được cô nói lên bay lơ lửng trước mặt bọn học trò, làm chúng tôi như bị hớp hồn, và rồi các chữ đó biến mất như những chiếc lá mùa thu trong trí nhớ về ngày đầu tới trường của một cậu bé.

Có những lúc giọng cô giáo đọc trầm bổng, đọc kinh ngạc, đọc thổn thức khi tới đoạn Ngọc giựt vạt áo chú tiểu Lan nơi sân Chùa Long Giáng và sững sờ thấy lộ ra một bầu ngực.

Và có lúc giọng cô giáo trầm lại, đọc từng chữ trong những câu “đánh cho để dài tóc, đánh cho để răng đen” khi Vua Quang Trung dẫn quân ra trận...
Những giờ được nghe, được đọc văn như thế đã làm cho tôi ngây ngất, cả khi bọn học trò chúng tôi đã phóng ra khỏi lớp và lên xe đạp về nhà. Không bao giờ tôi quên những buổi chiều tắm gội trong mùi hương văn học như thế. Nhiều thập niên sau, cảm giác này tôi đã gặp lại khi đọc một cuốn tản  văn rất mực dị thường.

blank
Bìa sách “Bóng Bay Gió Ơi.”


Đó là khi tôi mở ra đọc từng trang bản thảo Tản Văn Nguyễn Thị Khánh Minh. Có những lúc tôi ngưng đọc, tôi đứng dậy và tôi lùi xa bàn một chút... để nhìn về các trang giấy, xem có thật những chữ của Nguyễn Thị Khánh Minh đang bay lơ lửng trước mắt mình như tôi vừa thoáng thấy. Những lúc đó, tôi tự hỏi, làm thế nào nữ sĩ họ Nguyễn có thể viết được như thế: hơi thở nào đã làm những dòng chữ đã nằm chết trên trang giấy hốt nhiên bay lên, rời ra hỗn loạn như nghịch phá, và rồi cũng hốt nhiên các dòng chữ chui trở lại ngay ngắn như cũ trên bản thảo tập Tản Văn.

Viết được như thế, như Nguyễn Thị Khánh Minh, không phải là viết bằng giấy và mực. Cô không viết bằng giấy mực; cô viết bằng tất cả những gì cô tiện tay nhặt được, cô viết bằng tất cả những gì cô thò tay quơ được – đó là sông, là suối, là trí nhớ những năm thơ ấu, là tiếng cười và nỗi lo của những bạn văn từ VN và bên này, là những cảm xúc về hình ảnh tuổi trẻ Hồng Kông dựng lều giữa phố -- thế đấy, cô ép tất cả vào chữ. Và do vậy các chữ này cuồn cuộn sức sống. Trên trang giấy của nữ sĩ họ Nguyễn, đó là những âm vang sóng biển Nha Trang, là tiếng còi tàu xe lửa khi ngườì cha của cô từ giã cả nhà để đi dạy học xa, là những giọt nước mắt lo sợ của gia đình khi người cha bị bắt dẫn đi, và tận cùng là chất thơ của văn học Việt. Nơi đó, giữa những dòng chữ cũng là nỗi giận khi dò lại án oan của Nguyễn Thị Lộ...

Tôi đọc Tản Văn Nguyễn Thị Khánh Minh và kinh ngạc về chất thơ, về tính thuần Việt trong ngôn ngữ nơi đây. Chữ trong tản văn của nữ sĩ họ Nguyễn dùng thuần Việt, hay rất ít dùng chữ Hán-Việt, và độc giả có thể nhìn thấy hình ảnh cô gái nhỏ bước ra khỏi trang giấy, và cô ngẩn ngơ nhìn mọi thứ chạy lùi...

Như trích  đoạn sau từ bài “Theo Cảm Xúc Mà Đi”:
“...Nhắm mắt lại. Phút này đây.

… như nghe được hương trâm trâm bên vệ đường rầy xe lửa về quê nội, ai biết được mầu lấm tấm ngũ sắc kia đã cấy trong tôi mùi quyến luyến quê nhà đến vậy. Hễ chìm vào là nghe tiếng xe lửa xập xình, ánh nhìn cô gái nhỏ chạy lùi theo những hình ảnh vụt qua, bụi cây, ngọn núi, chiếc cầu nhỏ, những ô lúa xanh và con mương ốm chạy ngoằn ngoèo theo bờ ruộng. Lại như nghe được cả mùi thơm của đất bùn, đất ải quyện lẫn mùi phân trâu bò, mùi rơm rạ trong nắng trưa. Nếu không có một tuổi thơ gắn bó với mùi hương ấy thì chắc tôi không thể nào cảm được trọn vẹn cái êm ả, bình yên, mộc mạc của một làng quê, không chia được với ai kia nỗi nhớ nhà, không xẻ được với ai kia niềm hạnh phúc có một “nhà quê” để gậm nhấm lúc chia xa...”(hết trích)

Hay như trong bài “Bồng Bềnh Quê Nhà,” khi nữ sĩ họ Nguyễn nói về một lựa chọn:

“... Nhưng nếu, để đổi lấy văn minh mà mất hết trơn cái nhịp, cái mùi gần gũi ruột thịt như thế, tôi chọn, thà đi về trên con đê bên đường rầy xe lửa ngắt một nụ trâm trâm mà hút mật ngọt, thà trở lại quê nhà, tắm trong đêm dưới ánh trăng bên cái giếng gạch đóng đầy rêu, cười khúc khích với người chị đang tuổi dậy thì, chị Bích ơi, em biết sẽ có ngày chị em mình lại về nhà nội và tắm khuya bên bờ giếng ấy, phải là đêm có trăng để em thấy được những mảnh sáng bắn tung tóe từ người chị, hẹn thế nhé, nhưng đừng dọa em, dưới giếng có con rắn thật to nghe, mà cho dù thế cũng không cưỡng được em cái thích tắm dưới trăng khuya bên giếng gạch cũ của bà nội đâu, chị Bích à.” (hết trích)

Đoạn văn trên dùng chữ thuần Việt. Người đọc thấy hình ảnh hai cô bé tắm khuya bên giếng, kể lại qua ánh sáng mùa trăng và tiếng khua nước nhẹ nhàng như dòng chảy ca dao. Cảnh hiện lên trước mắt người đọc, với tiếng cười khúc khích lẩn khuất sau các dòng chữ trên giấy – nơi đó, giữa chữ vẫn còn hơi mát của giếng khuya. Làm sao viết được như thế...

Bây giờ, xin mời bạn đọc những dòng chữ sau, từ bài “Mưa Nắng Thềm Nhà.”  Nơi đây, nữ sĩ họ Nguyễn kể về những trận mưa quê nhà, và các dòng chữ đã bật lên tiếng tí tách, làm trang giấy phảng phất vị mặn của nước mưa vùng biển (mà có mặn không?), và chữ cũng bật lên một tiếng nói chở theo một nửa của cát trắng biển xanh (cũng lạ, làm sao đo nổi một nửa):

“...Bởi từ bé, tôi rất thích mưa. Cho đến giờ, vào những đêm có mưa, cuộn mình trong chăn, tôi vẫn mường tượng tiếng mưa rơi trên mái ngói ngôi nhà ba mẹ ở đường Đống Đa tuổi nhỏ. Mưa Nha Trang, ai biết không, có mùi biển, đến nỗi tôi đã thử uống nước mưa xem nó có tí mặn nào của biển không, chẳng chút mặn, mà sao nó lại ngọt đến thế, tôi nhớ như in cảm khoái trong lành thấm xuống cổ mình lúc ấy, nó rất khác nước uống mà bà ngoại đã đun sôi, thế là từ ấy, khư khư ý nghĩ chỉ có nước mưa ở Nha Trang là ngọt như thế, vì nó được cất từ hơi biển mặn ư? Nơi đó cái gì cũng mang mùi biển, vị biển, hương biển, nắng, gió, đất, cát, khí trời ban đêm, cả mái tóc bay và làn da rám nắng của các cô gái nhỏ nữa, giọng nói thì đương nhiên là của biển rồi, mặn mòi, thực thà, hồn nhiên. Giọng tôi chỉ được một nửa của cát trắng biển xanh thôi...” (hết trích)

*

Văn cũa nữ sĩ họ Nguyễn lúc nào cũng đẹp và thơ mộng, cũng xao động với những âm vang và hình ảnh, cũng lấp lánh tiếng khua động và màu sắc.
Bạn văn... Nguyễn Thị Khánh Minh viết rất trân trọng về hai bạn văn -- Nguyễn Lương Vỵ và Nguyễn Tôn Nhan. Nói bạn văn, vì là bạn của chữ. Cũng là bạn trong đời thực, dù có khi đã đọc từ khi mới lớn và rồi nhiều thập niên sau mới gặp – như khi cô ghi về Nguyễn Lương Vỵ, người nữ sĩ gọi là “Một Người Thơ hát âm giữa đôi bờ sinh tử chữ”, trích:

“Hồi 17 tuổi, tôi đã chép vào cuốn sổ ghi chép của mình, những câu thơ của Nguyễn Lương Vỵ  từ một tạp chí, nó làm tôi quá thích, chẳng hiểu sao mà hình ảnh và những chuyển động trong 4 câu thơ hòa quyện vào cùng một không gian một cách nhịp nhàng đến thế:

Biển đắp một toà sương
Lạnh đôi bờ vú nhỏ
Nàng tắm trong tịch dương
Núi gầm lên khóc nhớ…

Giữa cái cô liêu của tịch dương và tiếng gầm vô thanh hạt lệ núi cùng đôi bờ lạnh, nhỏ, khói sương kia có một nhịp tương giao rất đỗi quạnh hiu, và cũng quá thơ mộng trong 20 âm, ẩn hiện bóng chiều tàn.

Mãi đến 40 năm sau, tôi mới gặp được người viết, NLV, (viết bài thơ nầy vào năm 16 tuổi.) Gặp được, là nhờ cái cười vô vi, cái vẫy gọi hý lộng cuộc đời của nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan...”(hết trích)

Tôi đã khựng lại, đọc lại những dòng chữ trên trang giấy mới in nhưng như đã úa vàng theo ký ức: Mọi chuyện như dường không có thực, chữ của Nguyễn Thị Khánh Minh phả lên những sương khói khi kể về 40 năm cách quãng của bốn dòng thơ Nguyễn Lương Vỵ, và về “cái cười vô vi, cái vẫy gọi hý lộng của đời” của Nguyễn Tôn Nhan. Nữ sĩ trân trọng với thơ như thế -- thật hy hữu vậy.

Hay như khi viết về nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp, nữ sĩ đã ghi xuống giấy: “Với trữ tình NXT, hình ảnh và chữ mang hồn phách của Đẹp, không, tôi muốn dùng chữ diễm lệ, đẹp, buồn và thơ... Muốn đọc thơ NXT dường như phải giống như người xưa chơi đàn cầm, nghe nói muốn gảy đàn cổ này, tâm phải thật lặng tiếng đàn mới tỏ...”

Trân trọng với bạn văn, không chỉ với người đương thời. Chữ của Nguyễn Thị Khánh Minh trở nên buồn và phẫn nộ, khi viết về một bạn văn đã xa nhiều thế kỷ trước: Lễ Nghi Học Sĩ Nguyễn Thị Lộ, người tình của Nguyễn Trãi và là người có chiếc trâm cài tóc được các nhà khảo cổ Hà Nội đào thấy từ một chiếc cũi giam tù khai quật khi tìm hiểu về thảm án Lệ Chi Viên, mà báo Người Cao Tuổi kể lại: “…người ta đào ao, vật đất lên làm trại chăn nuôi dê, rồi đã phát hiện thấy một khối gỗ xếp theo hình cũi lợn, mộng rất khít không tra đinh, kích thước 4m x 4m, các thanh gỗ kích thước không giống nhau: 4m x 0,20m x 0,40m. Lúc mới đào gỗ mềm như bún, để một lúc thì khô cứng như đá. Anh Nguyễn Văn Hải*, cháu cụ Nguyễn Đăng Nông, nhặt được một chiếc trâm cài búi tóc phụ nữ dài 15cm ở trong cũi. Dư luận người ta cho đấy là trâm của bà Lộ, sau khi bị chém, tử thi chôn cùng cũi… Vậy mà những di vật cực quý ấy nay cũng không còn…”

Và bây giờ, Nguyễn Thị Khánh Minh ghi lại cảm xúc về Nguyễn Thị Lộ:

“Đọc thấy ngùi, giận. Một tài nữ, là Lễ Nghi Học Sĩ đầu tiên trong nền giáo dục Việt Nam, bị kết tội oan và chết thảm, để lại một dấu vết quá là thơ mộng, mong manh, một cây trâm cài tóc trong cũi tử tội, thế mà định mệnh khắt khe còn theo đuổi để nó mất dấu...

Nghe như trong nắng gió miền Nam Calif. lung linh những trang sử bi thương từ cái chết ai oán kia, có phải là hương tóc theo về từ chiếc trâm lay động màn bụi phủ hơn 5 thế kỷ? Và trong gió trời tự do, tôi sẽ lần theo hương tóc ấy để tìm dấu chiếc trâm cài, thưa Người.”(hết trích)

Nơi tản văn khác, Nguyễn Thị Khánh Minh đã gọi Du Tử Lê là “dòng sông hẹn hò biển cả.” Nữ sĩ viết:

“...Hình ảnh trở về và tìm thấy mình trong dòng sông, tôi thấy thấp thoáng khi đọc thơ Du Tử Lê.

Bước thư sinh khởi đi, đến mấp mé hoàng hôn. Một dòng sông dài. Một chặng tâm thức riêng người. Cất bước bắt đầu hay chợt dừng, cũng chỉ vì một lời hẹn, với mênh mông. Gần 60 năm đong đưa với nhịp chẩy dòng sông thơ. Trong đó có những gập ghềnh, đương nhiên, của cuộc kiếm tìm.”

Bạn văn. Nguyễn Thị Khánh Minh cũng viết về một nhà thơ, người nữ sĩ gọi là “thi sĩ đi trong thời gian của mình những bước thao thức của giấc mơ, người thơ Lữ Quỳnh.”  

Nữ sĩ cũng viết một họa sĩ, “hơi cọ đầy lửa, lửa xanh khơi từ trái tim phết lên tranh sắc mầu của hy vọng, hoạ sĩ Đinh Cường.”

Hay khi viết về những bạn trẻ ở Hồng Kông, đang ngồi biểu tình giữa phố gió sương với “Mùa thu, những chiếc ô và dải nơ vàng.” Nơi đó, nữ sĩ họ Nguyễn viết:

“...hình ảnh những chiếc ô, những dải nơ vàng. Nó như tiếng phong linh trong trẻo vang lên, đánh thức người ngủ gật bên hiên. Nó như vạt óng ả phết lên mùa thu hiu hắt của mọi tâm trạng này. Nó mang chất lãng mạn. Nó là cái gì như sinh khí... ai cũng cầm theo dù, để che mưa nắng, nhưng khi bị vòi rồng xịt nước và hơi cay thì nó trở thành một thứ bảo vệ, họ nằm xuống để tránh vỡ hàng ngũ và phủ lên nhau những chiếc dù. Như hàng ngàn cây nấm nhỏ đủ mầu mọc lên sau trận mưa của nghìn tấm lòng trẻ trung đang sống cho lý tưởng của mình...”

Nguyễn Thị Khánh Minh trầm láng xuống, khi viết về cha:

“...Không hiểu sao cuộc đời cha cứ đong đưa tù ngục, của cả hai phía. Tôi nghĩ cha tôi thật sự là người mơ mộng. Tại vậy, mà ông đúng là cây cô độc, như ông viết trong một vở kịch dở dang. Dang dở như sự nghiệp và hoài bão của ông...

…Hồi đó, tiễn cha đi dạy học xa, tôi vừa đủ tuổi để biết chia tay là rất buồn. Cha ôm mẹ, ôm tôi, và tôi luôn được nghe, lúc cha bước lên mấy bực toa xe lửa, quay đầu lại, ba sẽ về sớm thôi mà, tôi đã là một đứa con hạnh phúc khi luôn được đón bước cha về...

…Dạo ở tù về, cha lặng lẽ. Mỗi sáng cha qua làm vườn bên sân chùa, bữa cơm nhà có thêm rau cải non, trái khổ qua… Sáng dắt xe đạp ra cổng, tôi nhìn theo dáng áo nâu với cuốc trên vai khấp khểnh trên con đường hai bên không phải là ruộng xanh mà là những căn nhà phố, tôi tự hỏi lúc ấy cha nghĩ gì. Tối thì cha thường xuyên thức khuya, nhìn qua cửa sổ, tôi cảm thấy một nỗi cô quạnh xót xa với cảnh ánh đèn vàng yếu và mái đầu cha cúi trên trang giấy...”(hết trích)

Cúi đầu trên trang giấy. Lẻ loi. Hình ảnh người cha trong trí nhớ nữ sĩ như thế, trở thành những vệt chữ trên trang giấy tản văn và tôi đang thấy nét mực in như nhòe đi khi cô viết: “Hình cha mờ như có hơi nước, dường như vừa sóng sánh trên vô chung thời gian...”

Và nữ sĩ bùi ngùi khi viết về Sài Gòn, nơi đã hòa lẫn vào giấc mơ của cô:

“...A, tôi biết rồi, chính sợi tơ hẹn ước lênh đênh trên đường mộng ảo này dẫn tôi về, thành phố mang tên Sài Gòn, nơi tôi đã lớn lên, chỉ nơi này tôi mới lọt được vào nếp gấp xô lệch của thời gian, trở lại mọi thứ, như cũ, thời hai mươi vàng mười, lời tình tự mưa đêm thơm mùi hoa sứ, mùa hạ ướt những cơn mưa mà cho dù bao nhiêu lần được làm người nữa, nếu còn là mình, tôi còn nghe tiếng rất trong của nó rơi trước hiên nhà che chắn cho tôi một giấc mơ. Một nhịp chẩy diễm ảo đang đồng hóa tôi, tôi có đang trôi đi hay mãi mộng mơ đứng bên cổng cổ tích nhìn cánh bồ câu ngậm thư đưa tin yêu về...

...Một thời sinh viên chúi đầu vào sách vở, cho đến một ngày, đến trường bỗng ngỡ ngàng, bọn con gái chúng tôi hỏi nhau với giọng thảng thốt, sao lớp vắng thế này, bọn con trai đâu cả? ra năm đó nếu tôi nhớ đúng,1972, vừa có một luật động viên đôn quân, tôi lúc đó như bị va đầu vào tường, cú đập choáng người...

...Tôi thấy qua nắng muộn ánh mắt của những cô gái hai mươi, Châu Tỷ, Liêm, Liên, Gấm, Hoa, Xuân…và tôi, nhìn nhau, biết rằng, từ hôm ấy, tin chiến sự là vết mực đen phết trên từng trang sách học.” (hết trích)

Nguyễn Khánh Minh viết về 16 năm thời thơ ấu ở Nha Trang:

“Nếu tôi là họa sĩ, có lẽ những giọt nước mắt xa Nha Trang sẽ được vẽ bằng một mầu sắc nào đó rất lung linh trong một bức tranh nắng, có đôi mắt to của một cô bé 16 tuổi đựng suốt năm tháng ấu thơ dạt dào tiếng sóng, một ngày con sóng bật ra khỏi khóe mắt thành những hạt lệ, nên nó sẽ là một mầu rất mặn biển, để người xem tranh biết được nỗi chia lìa đó đã cứa xót lòng tôi đến thế nào.

Tôi không là họa sĩ, chỉ mong ký ức dẫn lời để có thể phác hoạ được cùng người một cách diễm lệ hình ảnh 16 mùa nắng Nha Trang, Nha Trang nhi đồng, Nha Trang dậy thì, và, Nha Trang lớn lên xa vợi, giật lùi sau chuyến xe lửa đang chở tia nhìn nuối buồn đau ngày tôi bị gỡ đi cái núm gió nắng mặn mòi ấy. Thế nên tôi cứ khắc khoải khi đêm về thốt nghe như có tiếng tầu lửa vang bên ngoài cửa sổ.”(hết trích)

Và ký ức Nguyễn Thị Khánh Minh ghi về nhà sư Tuệ Sỹ:

“Rồi, chúng tôi được nghe và thấy Sư Ngồi Đàn, một Sư Nhà Thơ gõ trên phím những nốt nhạc của tâm hồn. Tôi tặng Sư tập thơ Bùa Hương, và dĩ nhiên tôi không để lỡ cơ hội có được chữ của Sư trong bản duy nhất của riêng kia. Và thủ bút của Sư, bằng chữ Hán lẫn Việt câu thơ: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn/ Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.

(Phải chi ngày xưa cứ giữ cái hiệu Tuệ Minh, thì bây giờ thấy sang bắt quàng làm họ, với cố nữ sĩ Tuệ Mai và ngọn núi vời vợi Tuệ Sỹ này rồi. Là tôi nghĩ thầm thế)

Giở xem lại những chữ ký ấy lòng run như đang mở xem viên ngọc quí.”(hết trích)

Nữ sĩ cũng ghi lại kỷ niệm với nhà thơ Bùi Giáng:

“...thấy ông ngồi nơi góc vườn, trên chiếc võng dưới bóng mát gốc cây to treo đủ thứ lỉnh kỉnh. Mầu áo xám, khăn gì quàng cổ không biết, gầy guộc, khuôn mặt ông, nụ cười móm trẻ con, nhưng ánh mắt cực sáng sau cặp kiếng... Tôi ngồi nửa quỳ bên cạnh võng đưa ông chén rượu nhỏ. Ông cầm tập thơ TTCB của tôi dứ dứ lên xuống, qua có tập thơ của cô ở một cái gánh de chai à nhen. Rồi biết thêm, mới đầu nó có một cái giá còn rẻ hơn bèo, nhưng sau đó thì bà ve chai lại cho không. Không giá, nhưng với tôi lúc ấy, tập thơ nhỏ của tôi lại vô giá từ lời khen của ông...”(hết trích)

Cũng có lúc Nguyễn Thị Khánh Minh ngang ngược, cãi với thời gian khi gặp tiểu thư Lưu Na, và rồi dịu giọng khi viết về Nguyễn Đình Thuần, Lê Giang Trần, Trịnh Y Thư, Tô Đăng Khoa và Phạm Quốc Bảo:

“...Vòng tròn tiếp đến một cô bé, mà tôi đã không cho cô chào tôi bằng cô, chị đi, cho tôi hưởng chút thanh xuân của cô, nhé, Lưu Na. Có ai đọc những tuỳ bút của cô rồi gặp, hẳn là phải ngạc nhiên, như tôi lúc ấy, cái trẻ trung tươi măng lại ẩn dấu suy tư tre già đến thế, ra trong ánh mắt ấy có riêng cái nhìn cùng chữ, để tin cậy trao gửi thẳm sâu của suy tưởng và tâm hồn.

Còn mái tóc trắng mây kia nữa, giọng Huế, âm thấp như nốt nhạc trầm rơi xuống chiều, hoạ sĩ Nguyễn Đình Thuần, người vẽ những giấc mơ và con gái màu xanh...

...Có sáng Gypsy ngồi nhìn trời đầy xanh đất đầy nắng, có chàng nhà thơ hay buồn trĩu như mây sắp mưa, Lê Giang Trần, ở đời này hưởng biết bao buồn vui nhưng vẫn là trạm để bạn quá bước thôi sao...

...Sáng đó nói chuyện được nhiều với nhà văn, nhà thơ TYT mới thấy được vẻ trầm tĩnh và những nhận xét sắc nét của anh về cuộc sống cũng như văn chương nghệ thuật...

...tôi cũng được biết một khuôn mặt trẻ mà tôi rất cung kính về sự thông hiểu Phật pháp, Tô Đăng Khoa.

Nắng ký ức loé lên một bức tranh sắc màu buổi xế Santa Ana. Có tiếng cười rất bằng hữu của một người anh cả, Nhà Văn Phạm Quốc Bảo, người sở hữu một văn phong điềm đạm, và những nhận xét tinh tế....”(hết trích)

Nữ sĩ cũng hiển lộ nét trân trọng khi viết về sáng tác văn học mà cô gọi là “gói mở nỗi niềm,” và về cảm xúc ngưỡng mộ các nhà văn nữ:
“...Tôi có duyên gần gụi với việc viết, và lần hồi biết lấy từ mớ bòng bong cuộc sống những dây tơ thời gian để gói mở nỗi niềm. Với riêng tôi, đó là những sợi tơ tim óc chứ không phải là món đồ xa xỉ, để tôi biết quí trọng, dùng, và hưởng, một cách nâng niu, như ơn phước. Đó không phải là một ghé chân dự một cuộc vui, bữa tiệc, rồi về. Chí cốt với chữ, đối với một phụ nữ, bạn hỏi tôi có gặp khó khăn nào không. Tôi nghĩ những điều ảnh hưởng tương đối vào việc viết lách, không xem là khó khăn, đó là công việc hằng ngày mình sống, có trách nhiệm và phải chu toàn bổn phận của mình. Tôi không nói đến những thứ mà người ta đặt để cho phụ nữ gọi là thiên chức. Tôi đảm nhận những việc tôi ý thức là của tôi, càng viết tôi càng nhận thấy điều đó thật cảm động.

Và, bất cứ lúc nào trái bóng ấy đến rủ rê, tôi bay. Cho nên, tôi rất ngưỡng mộ các nhà thơ như Lê Thị Huệ, như TrangĐài Glassey Trầnguyễn,… vừa viết (mà viết hay nữa mới chết người ta chớ!) vừa chuyện nhà, chuyện con, lại gánh vác công việc một cách rất đáng nể ngoài xã hội nữa.”(hết trích)

*

Tôi đọc Tản Văn Nguyễn Thị Khánh Minh và đã nhìn thấy gió biển Nha Trang đang lật sang từng trang giấy, và đã nghe rì rào xao động từ những dòng chữ mê hoặc, những chữ ướp tẩm mùi hương như quen mà rất lạ, rất thuần Việt. Vâng, một mùi hương văn học, mà nữ sĩ có nơi gọi là Bùa Hương.

Khi trang cuối bản thảo Tản Văn khép lại, tôi vẫn còn ngửi thâý mùi hương này phảng phất chưa ngưng.

GHI CHÚ: Tác phẩm "Bóng Bay Gió Ơi: Tản Văn Nguyễn Thị Khánh Minh" đã  bắt đầu bán trên Amazon.

Xin mời vào:
http://www.amazon.com/
Gõ chữ: “nguyen thi khanh minh”

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.