Hôm nay,  

Một Nền Ngoại-giao Không Có Trí Nhớ

19/10/201507:23:00(Xem: 5294)

MỘT NỀN NGOẠI-GIAO KHÔNG CÓ TRÍ NHỚ
.

Tâm Việt phỏng dịch


Trong một bài báo gần đây (trên Wall Street Journal ngày 9 tháng 10, 2015), ông Niall Ferguson, người viết tiểu-sử của cựu-Ngoại-trưởng Henry Kissinger, cho rằng Tổng-thống Obama thực-sự không có chính-sách ngoại-giao mà chỉ tìm cách phản-ứng tức-thời với tình-hình chung quanh thế-giới, cuối cùng gây ra một tình-trạng thế-giới nguy hiểm gấp bội sau bảy năm cầm quyền.

Theo ông Ferguson thì trước khi vào làm tại Toà Bach-ốc, ông Henry Kissinger đã hiểu rất rõ những khó khăn trong việc làm chính-sách ngoại-giao cho một đại-cường-quốc như Hoa-kỳ.  Từ năm 1968, Kissinger đã viết “không có cái gì gọi là chính-sách ngoại-giao của Hoa-kỳ.”  Tất cả chỉ là “một loạt động-thái mang lại một kết-quả nào đó” mà thậm chí chưa chắc đã là “kết-quả mà các động-thái kia nhắm đạt đến.”  Chỉ có những tổ-chức “nghiên cứu hay tình-báo” thì mới “nhằm đưa ra một lý cớ và một sự nhất quán mà chính-sách kia không có.”

Có hai “bịnh” rất đặc-thù của Hoa-kỳ giải-thích vì sao không có suy nghĩ chiến-lược thuần nhất, trước sau như một trong chính-sách ngoại-giao của Hoa-kỳ.  Một là người cầm đầu chính-quyền đã được lựa chọn dựa trên những kỹ-năng khác.  “Điển-hình cho một nhà lãnh-đạo chính-trị trong một xã-hội hiện-đại đặt nặng vấn-đề quản-lý,” theo ông Kissinger, “là một người có quyết-sách, khả-năng cao thu phiếu bầu của người dân, nhưng không có quan-niệm rõ ràng lắm là khi vào Toà Bạch-ốc thì sẽ làm cái gì.”

Cái “bịnh” thứ hai là ở trong chính-quyền đầy dẫy những người đã từng được huấn luyện để ra làm luật-sư.  Để làm chính-sách ngoại-giao, trái lại, ông Kissinger đã có lần khẳng-định, “ta cần biết ứng-dụng lịch-sử ra sao.”  Ngược lại, luật-sư lại “chính là nhóm đông nhất ở trong chính-quyền” Hoa-kỳ mà những người này thì lại đặc-biệt “yếu kém về kiến thức lịch-sử.”  Đây là một định-kiến mà ông Kissinger đã có từ rất lâu.  “Những anh luật-sư khôn ranh điều hành chính-quyền [Mỹ],” ông ta giận dữ viết cho một người bạn từ năm 1956, đã làm cho đất nước này yếu hẳn đi “vì họ chỉ đi tìm những rủi ro tối-thiểu, một đặc-điểm rõ ràng nhất” trong chính-sách ngoại-giao của Hoa-kỳ.

Ta hãy thử nhìn lại xem.  Một người giỏi đi vận-động tranh cử.  Một lô luật-sư.  Và một sự “đi tìm những rủi ro tối-thiểu.”  Nghe có vẻ quen quen, phải không ạ?

Tôi đã bỏ ra nhiều giờ, ông Niall Ferguson nói, trong bảy năm qua để tìm hiểu chiến-lược của ông Obama là cái gì cho nước Mỹ.  Trong suốt thời-gian đó, như đã có lần một vị tướng trong quân-đội nhận-định với ông Ferguson về chiến-lược của vị tổng-tư-lệnh ngồi ở Tòa Bạch-ốc, “chúng tôi đã phải dựa vào các bài diễn-văn của ông ta để mà hiểu.”


Không muốn giống những người tiền-nhiệm


Thoạt kỳ thủy, ông Ferguson cho rằng ông Obama không muốn giống người đi trước—một điều có thể hiểu được.  Nhất là khi ông Bush cũng đã làm một số lỗi lầm trong chính-sách đối với Iraq, dẫn đến sự mất tin tưởng trong quần-chúng.  “Tôi đã đọc bài nói chuyện của ông Obama ở Cairo, Ai-cập, vào năm 2009” với những đoạn trích dẫn kinh Coran của người Hồi-giáo hứa hẹn “một bước đi mới giữa Hoa-kỳ và người Hồi-giáo trên khắp thế-giới” như một tuyên-ngôn chống lại chính-sách của vị tiền-nhiệm, ông Bush.

Nhưng đi vào thực-tế thì chuyện đó có nghĩa như thế nào thì lại không rõ.  Vội vàng rút quân ra khỏi Iraq nhưng lại cho tăng quân đột-xuất một thời-gian ở Afghanistan?  Một sự “văn lại” đồng-hồ trong chính-sách đối với Nga song không có vẻ quan-tâm lắm đối với châu Âu?  Một sự “quay gót” về Á-châu nhưng lại đưa ra những tín-hiệu mập mờ đối với Trung-quốc?  Rồi, để đáp ứng với các “cách mạng hoa lài” ở Tunisia, Ai-cập, Syria và Libya, thì là một sự hỗn-độn hoàn-toàn mà cực-điểm thấp nhất là vụ đặt ra “cái vạch đỏ” vào tháng 9 năm 2013 khi ông Obama khẳng-quyết là sẽ trừng phạt chế-độ của ông Assad ở Syria nếu như ông này dùng vũ-khí hóa-học rồi không dám đi tới, với lời chống chế tội-nghiệp “nước Mỹ không phải là sen đầm của thế-giới.”

Có người đùa rằng để hiểu chính-sách của ông Obama thì ta có thể dựa vào chuyến đi của ông ta vào tháng 4 năm ngoái (2014) vì sau chuyến đi đó về, các phụ-tá của ông nói với các phóng-viên ký-giả đi theo rằng “chủ-thuyết Obama ấy à,” đó là “Đừng làm những chuyện ngu xuẩn!”

Nhưng theo ông Ferguson thì có lẽ chủ-thuyết Obama có nội-dung khá hơn thế!

Ông Obama đã từ lâu không chỉ muốn bác bỏ chính-sách ngoại-giao của ông George W. Bush.  Trong một cuộc tranh-luận với ứng-cử-viên Tổng-thống Cộng-hòa Mitt Romney, ông Obama cho biết là ông cũng quay lưng vào cả chính-sách của cựu-tổng-thống Ronald Reagan.  “Những năm 1980 đang đòi hỏi chúng ta phải trả lại cho họ chính-sách ngoại-giao của thời ấy,” ông phản-bác, “bởi Chiến-tranh Lạnh đã kết thúc từ hơn 20 năm rồi.”  Ý ông muốn nói là ông Romney đang chủ-trương một chính-sách ngoại-giao lỗi-thời.  Nhưng nhìn kỹ lại thì khi ông Romney gọi nước Nga là “địch-thủ số 1 của Hoa-kỳ về mặt địa-chính-trị” thì xem ra ông ta có vẻ nhìn xa và xác-thực hơn trong khi ông Obama lại huênh hoang trong một bài phỏng vấn với tờ New Yorker tháng 1/2014 là “ngay giờ tôi thực-sự không cần một ông George Kennan,” [ông Kennan là cha đẻ của chính-sách “be bờ” mà Mỹ đem ra áp-dụng suốt trong thời-gian Chiến-tranh Lạnh (1947-1991)].  Nói vậy, ông Obama xem chừng như muốn vất bỏ hết kinh-nghiệm của gần một nửa thế-kỷ trong chính-sách ngoại-giao với CS.  Chỉ hai tháng sau, ông Vladimir Putin sát nhập bán-đảo Crimea và nước Nga.

Ông Obama nghĩ là ông ta có kế-hoạch riêng cho vùng Trung-Đông.  “Sẽ là vô cùng có lợi” cho nhân-dân các nước trong vùng “nếu như các người theo hai phái Sunni và Shia [hai ngành chính tranh cãi nhau trong truyền-thống Hồi-giáo] đừng tìm cách giết nhau như ngóe nữa,” ông Obama tuyên-bố trong cùng cuộc phỏng vấn đó.  “Nếu chúng ta có thể lôi cuốn được Iran vào cộng-tác một cách có trách-nhiệm—không tài-trợ cho các tổ-chức khủng-bố nữa, không tìm cách xúi giục những sự bất đồng phe phái trong các nước khác, và không khai triển vũ-khí hạt-nhân—thì ta sẽ thấy một sự cân-bằng lực-lượng được tạo ra giữa các nước mà đa-số theo phái Sunni ở một bên và Iran ở một bên.”

Như vậy ta có thể thấy là ông Obama cũng có chiến-lược đấy chứ--một chiến-lược nhắm vào việc tạo ra một tình-hình cân-bằng mới ở Trung-Đông!  Việc bắt tay với Iran trong vấn-đề vũ-khí hạt-nhân là một phần trong chiến-lược của ông (như ông đã giải thích cho ký-giả Jeffrey Goldberg hồi tháng 5 năm nay) “nhắm tìm những đối-tác hữu hiệu—không riêng gì ở Iraq mà còn cả ở Syria, cũng như ở Yemen và Libya.”  Ông Obama tuyên-bố ông muốn “tạo ra một liên-minh quốc-tế và một không-khí mà trong đó những người thuộc các phe phái khác nhau sẵn sàng thỏa-hiệp để làm việc với nhau nhằm cung-cấp cho thế-hệ tới một ‘cơ-hội đấu tranh’ để đi đến một tương-lai sáng sủa hơn” (“a fighting chance to a better future” trong tiếng Anh).

Cũng lối suy nghĩ lùng bùng (nếu không muốn nói là dở hơi) đó nằm đằng sau bài diễn-văn của ông Obama ở Đại-hội-đồng Liên-hiệp-quốc vào tuần trước.  Ông bắt đầu bằng cách nói rằng ông “muốn làm việc với các quốc gia khác dưới sự che phủ của các tiêu-chuẩn, nguyên-tắc và luật-pháp quốc-tế” nhưng ngay sau đó, ông lại nói, riêng trường-hợp Syria, ông sẵn sàng làm việc với Nga và Iran—cả hai nước này đều không có thành-tích làm việc dưới sự bao che của quốc-tế--ngày nào mà họ bằng lòng đẩy đi một nhà độc-tài Trung-Đông nữa.

Thế mà là “một cơ-hội đấu tranh cho một tương-lai sáng sủa hơn” ở Trung-Đông chăng?  Ông Niall Ferguson cho rằng có lẽ phải gọi đó là “một cơ-hội tốt hơn để đi đến chiến-tranh trong tương-lai” (“a better chance at future fighting”).


Thảm-bại


Rõ ràng là chiến-lược của ông Obama đang thảm-bại.  Tính từ năm 2010 đến nay thì số tử vong từ các trận chiến trên thế-giới đã tăng lên gần 4 lần, theo Viện Quốc-tế Nghiên-cứu Chiến-lược (International Institute of Strategic Studies) ở Anh.  Tổng-số tử vong do các thành-phần khủng-bố gây ra đã tăng lên gấp 6 theo sự tính toán của Trường Đại-học Maryland nghiên-cứu Khủng-bố và các cách Đáp ứng Khủng-bố.  Gần như tất cả những sự chết chóc này đều nằm ở trong một vùng kéo dài từ Bắc-Phi qua Trung-Đông và tới A-phú-hãn và Pakistan (Hồi-quốc).  Và có tất cả những dấu hiệu cho thấy là thứ bạo-lực này sẽ leo thang khi các quốc-gia Sunni ở trong vùng tìm cách ngăn cản Iran trở thành bá-quyền thay thế Mỹ ở trong vùng.

Ngày hôm nay, Hoa-kỳ đứng trước ba thách thức chiến-lược: vùng bão tố trong thế-giới Hồi-giáo, những mưu-đồ của một nước Nga tuy đã yếu nhưng rất hung hãn, và tham-vọng của một nước Trung-quốc vẫn đang lên.  Cách đáp ứng của Tổng-thống Obama trong cả ba trường-hợp đều rất thiếu sót.

Những người biết nhiều về cách điều-hành nội-bộ trong Tòa Bạch-ốc tự hỏi tại sao ông Obama, một người lên làm Tổng-thống mà hầu như không có chút kinh-nghiệm ngoại-giao nào, lại cũng không tìm cách thuê những phụ-tá có chuyên-môn chiến-lược trong ngành này.  Để cho công-bằng cũng phải nói là ông Denis McDonough (hiện là đổng-lý văn-phòng Tòa Bạch-ốc) thì cũng có hiểu biết thực-sự về Nam-Mỹ.  Trong thời-gian theo học ở Oxford (bên Anh), Cố vấn An-ninh Quốc gia Susan Rice có viết một luận-án tiến-sĩ về nước Zimbabwe (ở nam Phi-châu).  Và bà Samantha Power, đại-sứ Mỹ ở LHQ, cũng đã xuất bản hai cuốn sách đáng kể (với một cuốn có tên là “Một vấn-đề từ Địa-ngục: Nước Mỹ và thời-đại diệt chủng,” một đề-tài mà bà sẽ phải cập nhật chừng nào bà trở lại dạy học).

Nhưng những phụ-tá then chốt khác của Tổng-thống Obama là thuộc hạng mà ông Kissinger đã phải than phiền từ hơn một nửa thế-kỷ: ông Michael Froman, người đại diện Mỹ thương thuyết về TPP, chẳng hạn, chỉ là một bạn cùng lớp với ông Obama ở Trường Luật Harvard; Thứ-trưởng Ngoại-giao Tony Blinken là một luật-sư học ở Columbia ra; vị giáo-chủ đằng sau màn che, bà Valerie Jarrett, lấy bằng luật từ Đại-học Michigan.  Thế còn Tổng-trưởng Ngoại-giao John Kerry?  Trường Luật Boston College, khóa 1976.  Không có tới một người trong số những cố-vấn của Tổng-thống mà có đóng góp nào vào các chủ-thuyết chiến-lược tương-đương như ông Kissinger hay ông Zbigniew Brzezinski (cố vấn an-ninh quốc gia của Tổng-thống Carter) trước khi họ đến làm việc ở Tòa Bạch-ốc.

Có những việc ta có thể bắt tay vào việc rồi học, nghĩa là học tại chức—như nghề pha rượu hay làm phối-hợp-viên cộng-đồng.  Chiến-lược về an-ninh quốc gia thì là chuyện khác hẳn.  “Những chức-vụ cao-cấp dạy cho ta lấy quyết-định, nó không dạy cho ta chuyên-môn trong ngành,” ông Kissinger đã có lần viết.  “Làm chức lớn là tiêu-thụ những vốn liếng trí-thức mình sẵn có, nó không đẻ ra những vốn liếng đó,” tóm lại cái vốn đó ta phải có từ trước khi vào việc.

Vị tổng-thống sau này của nước Mỹ có thể sẽ phải tiếc nuối là ông Obama đã không để ý đến những lời khuyến cáo như loại của ông Kissinger.  Cứ bắt tay vào việc rồi mới mò ra chiến-lược chiến-thuật, Tổng-thống Obama đã gieo gió.  Người đến sau gần như chắc chắn sẽ phải gặt bão.  Vị tổng-thống tới nên nghĩ đến việc tìm loại vốn liếng về ngoại-giao, kinh tế, chính-trị sâu sắc ngay từ bây giờ trước khi nhậm chức vào tháng 1 năm 2017.

 

.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.