Hôm nay,  

Nhìn xa hơn 2016: Có lẽ cơ hội tốt cuối cùng cho ĐCSVN để sửa lại cho đúng

21/12/201512:52:00(Xem: 5567)

Nhìn xa hơn 2016: Có lẽ cơ hội tốt cuối cùng cho ĐCSVN để sửa lại cho đúng
.

Đôi lời: Brooking là Viện Nghiên cứu chính sách lâu đời nhất ở Washington. Thành lập năm 1916, Brookings được nhiều người xem là một trong những think-tank có uy tín nhất ở Mỹ và là một trong các viện nghiên cứu ảnh hưởng nhất thế giới. Bài viết của ông David Brown đăng trên Viện Nghiên cứu Brookings, giúp người Mỹ có cái nhìn mới nhất về mối quan hệ giữa hai nước.

___

Brookings

Tác giả: David E. Brown

Dịch giả: Trần Văn Minh

14-12-2015

Đối với Hoa Kỳ, thời kỳ của một “Trung Quốc đang trỗi dậy” là một thách thức mới. Đối với Việt Nam, đó là sự lặp lại câu chuyện một ngàn năm [bị đe doạ]. Tham vọng thống trị trên toàn Biển Đông của chế độ Bắc Kinh đã bào mòn tính chính danh của chính quyền cộng sản Hà Nội. Thật trùng hợp, nhà cầm quyền ở Hà Nội đang có những cử động hướng về một thỏa thuận chiến lược với Washington.

Mối quan hệ Việt-Mỹ đang phát triển hiện nay có dáng vẻ một số phận địa chính trị muộn màng nhưng chắc chắn. Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi trong các bộ phận của Đảng Cộng sản Việt Nam nắm toàn quyền, trong số những người ngoài đảng (96% trong số 93 triệu người Việt Nam), ý niệm liên kết mật thiết với Mỹ rất được hoan nghênh. Sự thịnh vượng hiện tại và tương lai của đất nước phụ thuộc rất nhiều vào việc tiếp cận đến thị trường Mỹ và các đồng minh, và đến công nghệ và vốn của họ. Tuy nhiên, tự bản thân Việt Nam phải có can đảm chính trị để cải cách những luật pháp quốc nội đang hạn chế khả năng để biến sự tiếp cận vào thị trường thành một nguồn phồn vinh.
.

Bốn mươi năm sau khi kết thúc, cuộc chiến với Mỹ không còn dấy lên những cảm xúc mạnh ở Việt Nam. Hầu như không có ngoại lệ, người Việt Nam nhấn mạnh rằng họ không mang thù hận, một khái niệm bắt đầu chính thức từ năm 1988 khi Hà Nội thực hiện chính sách đối ngoại “thêm bạn bớt thù”. Khi đó, chính quyền không có lựa chọn nào khác; các nỗ lực sau khi thống nhất đất nước để công hữu hóa nông nghiệp, xây dựng ngành công nghiệp nặng từ dưới lên và phân bổ hàng hóa theo một kế hoạch trung ương đã thất bại, như các cố vấn Liên Xô của Việt Nam đã dự đoán. Vào thời điểm đó, chính khối Xô Viết đang sụp đổ, và cũng đi theo là sự trợ giúp huynh đệ đã giữ cho nền kinh tế Việt Nam chỉ đủ sống còn trước lệnh cấm vận thương mại do Mỹ tổ chức.

Về nội bộ, Hà Nội chủ trương đổi mới, hay cải cách kinh tế. Đại hội Đảng đã mở đường cho Việt Nam đi vào ‘kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa,’ một cái gì đó có vẻ giống chủ nghĩa tư bản. Thật vậy, động lực tư bản đã nổi lên lấp đầy khoảng trống kinh tế mà các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) phục vụ yếu kém. Tuy nhiên, khu vực doanh nghiệp nhà nước không bị giải tán, cũng như – mặc dù nông nghiệp không còn bị công hữu hóa – không thực sự trả lại quyền sở hữu đất đai cho nông dân.

Quá trình chuyển đổi kinh tế-xã hội không hoàn chỉnh đó đã vận hành khá tốt trong hai thập niên. Năm này đến năm khác, kinh tế Việt Nam tăng khoảng 7% mỗi năm. Xuất khẩu gạo và cá, cà phê và hạt điều tăng vọt. Các nhà đầu tư từ Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan cung cấp kiến thức và vốn cho các ngành công nghiệp lắp ráp giày dép và hàng may mặc. Hầu như tất cả mọi người đã khá hơn. Mặc dù sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng rõ rệt, sự chênh lệch này cũng chủ yếu nhắc tới mong ước làm giàu.
.

Đến năm 2007, Việt Nam được thu nhận vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), và trở thành một trụ cột của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với thu nhập bình quân đầu người lên đến 1000 USD, 10 lần so với mức năm 1989. Chính quyền Hà Nội đã gầy dựng hàng chục mối quan hệ hợp tác với nước ngoài. Đặc biệt đáng kể là mở rộng và làm sâu sắc hơn mối quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Mặc dù mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và với Mỹ được thúc đẩy bằng tính thực dụng, nhưng ý thức hệ đã đặt định những quan hệ đó.

Luôn luôn cận kề một cách khó chịu và đòi hỏi sự tôn trọng của một người em dành cho người anh cả, Trung Quốc là một vấn đề trọng tâm cho các triều đại của Việt Nam cả hơn một ngàn năm. Phần lớn thời gian đó, hai quốc gia cũng khá hòa thuận với nhau. Sự giao tiếp của giới ưu tú với Trung Quốc đã định hình văn hóa Việt Nam. Đoàn quân của Hồ Chí Minh không thể bào mòn quân đội Pháp và Mỹ mà không có sự trợ giúp huynh đệ từ Trung Quốc của Mao Trạch Đông. Sau này, khi Hà Nội chọn đi theo Bắc Kinh một cách muộn màng trên “con đường tư bản chủ nghĩa”, lãnh đạo Việt Nam dành ưu tiên cao cho các đối tác Trung Quốc đặt mối quan hệ với các cấp của Đảng và nhà nước.

Tuy nhiên, sự hợp tác với Bắc Kinh thường dễ xảy ra đụng chạm. Chủ đề quen thuộc của lịch sử Việt Nam là thành công chống lại quân xâm lược. Như tất cả các học sinh Việt Nam đều biết, các đội quân xâm lược thường nhất là người Trung Hoa. Năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã bị thất bại khi ông ấy cố tình “dạy cho Việt Nam một bài học” sau việc phế truất chế độ Pol Pot ở Campuchia.
.

Sau khi quan hệ ngoại giao được khôi phục vào năm 1995, Hoa Kỳ trở thành một thị trường hấp dẫn cho hàng hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, ĐCSVN tiếp tục cảm nhận được một sự đe dọa. Mặc dù đảng cầm quyền đã từ bỏ hầu hết chủ nghĩa Mác, họ vẫn mang đậm nét Lê Nin trong quyết tâm nắm chặt đời sống chính trị của Việt Nam. Đối với các quan chức có trách nhiệm về an ninh nội địa tại Việt Nam, Mỹ vẫn chưa từ bỏ các ý định thù địch. Người Mỹ chỉ đơn giản trở nên tinh tế hơn, truyền thông của Đảng nói, tuyên truyền “khái niệm xã hội dân sự” và “âm mưu thúc đẩy thế lực diễn biến hòa bình.”

Chừng nào nền kinh tế của Việt Nam bùng phát và Trung Quốc thuyết phục được các nước láng giềng rằng tiến trình trỗi dậy thành cường quốc sẽ xảy ra trong hòa bình, thái độ nghiêng về phía Trung Quốc của chế độ Hà Nội và mong muốn của công chúng có mối quan hệ ấm áp hơn với Hoa Kỳ là một bất đồng có thể quản lý được.

Tuy nhiên, chỉ vài năm sau, chính quyền Hà Nội đã thất bại trong việc ứng phó với sự suy thoái toàn cầu nghiêm trọng. Khi thị trường xuất khẩu của đất nước giảm mạnh trong năm 2008, lãnh đạo Việt Nam giải quyết bằng cách thúc đẩy nhu cầu trong nước cho đến khi khách hàng nước ngoài quay trở lại. Họ làm việc này chủ yếu bằng cách điều hướng tín dụng tới khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Điều ngạc nhiên là rất ít nỗ lực được bỏ ra để giám sát cách các DNNN nầy dùng sự hào phóng của Ngân hàng Nhà nước. Phần lớn tín dụng đi vào các đề án phát triển bất động sản không liên quan đến ngành kinh doanh thông thường của các DNNN. Cũng có một phần khá nhiều đi vào việc mua lại hoặc tạo ra các ngân hàng mới rồi sau đó tạo ra thêm tín dụng và cho các cổ đông của họ vay lại.
.

Trong năm 2010, bong bóng bất động sản bị vỡ. Người vay lũ lượt bị vỡ nợ, các ngân hàng nhà nước bị mắc kẹt với một tỷ lệ khổng lồ các món nợ xấu. Các kiểm tra viên cho rằng khoản nợ này hiện nay tổng cộng ít hơn 4% tài sản của hệ thống ngân hàng; các cơ quan xếp hạng tín dụng ngoại quốc nhất định rằng con số thực tế là gần 15%.

Thêm nữa, tập đoàn đóng tàu Vinashin mà Hà Nội đã bơm vào 4 tỷ USD, cần phải được giải cứu. Kẻ kế tiếp rơi vào phá sản là công ty vận chuyển đường biển và điều hành cảng biển, Vinalines. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng khen tặng cả hai công ty như là một mô hình mới cho các doanh nghiệp nhà nước.

Trong khi đó vào năm 2009, Bắc Kinh lại khơi lên tuyên bố quyền bá chủ của Trung Quốc “từ thời cổ đại” trên toàn vùng Biển Đông. Ngoài khơi bờ biển dài của Việt Nam, tàu Trung Quốc gia tăng sách nhiễu ngư dân Việt Nam và can thiệp vào các hoạt động thăm dò dầu và khí đốt.
.

Kết nối với mạng, dân chúng lên tiếng

Những sự kiện này trùng hợp với một cuộc cách mạng thông tin. Mặc dù từ lâu đã có một thành phần nhỏ bất đồng chính kiến với nhà nước CHXHCNVN, họ không có phương tiện để đến với số lượng lớn khán giả cho đến khi có sự bùng nổ của Internet. [1] Từ 200.000 người dùng vào năm 2000, số người tham gia mạng điện toán tại Việt Nam đã tăng lên đến 40 triệu người, khoảng 55% người Việt trên 14 tuổi.
.

Khi ngày càng nhiều người dân tham gia vào mạng, họ tìm thấy một môi trường đầy dẫy ý kiến khác biệt về các chủ đề mà phương tiện truyền thông hợp pháp của Việt Nam bị cấm không được loan tải. Hiện nay, ngoài tầm với sự kiểm duyệt của chế độ, các trang blog loan tải những vấn đề công cộng quan trọng nhận được hàng triệu lượt truy cập mỗi ngày. Tài khoản Facebook, trong đó hơn 30 triệu người Việt truy cập thường xuyên, đầy dẫy đàm thoại về chính trị.

Ví dụ, người lướt mạng trong năm 2008 đã biết được rằng chính phủ đã cấp giấy phép cho Công ty Nhôm Trung Quốc khai thác mỏ bauxite ở vùng cao nguyên. Cuộc thảo luận hồi đầu nhấn mạnh đến những tác động xã hội và môi trường của dự án, nhưng ngay sau đó biến thành cuộc tranh luận công khai chưa từng có về sự nhượng bộ của đảng và nhà nước trước Trung Quốc, gây thiệt hại cho an ninh quốc gia.

Trong khi đó, cuộc khủng hoảng kinh tế của Việt Nam trở nên trầm trọng hơn. Năm 2011 chính quyền bị buộc phải thắt chặt tín dụng. Một số lớn nhà kinh tế kết luận rằng, động lực do chính sách đổi mới giải tỏa đã bốc hơi. Tâm trạng quần chúng thì cáu kỉnh. Người ngoài đảng thì được công khai trút sự bất mãn lên nhau. Có lẽ công an đang lắng nghe, nhưng những nhà bất đồng chính kiến cảm nhận sự an toàn trong số lượng, và có nhiều chuyện để than phiền: sự phá sản của hàng trăm ngàn doanh nghiệp và các nhà đầu tư nhỏ, tham nhũng vặt, sự tàn bạo của cảnh sát, việc đi đến chăm sóc sức khỏe và giáo dục không công bằng, điện bị cắt liên tục và thái độ hòa giải của chính quyền đối với các hành động khiêu khích của Trung Quốc ở ngoài biển.
.

Bế tắc

ĐCSVN rõ ràng cũng đang gặp khó khăn. Rất ít trong số những người sáng lạn và giỏi nhất chọn nghề theo Đảng. Những người chọn lĩnh vực công chức thường ít quan tâm đến hệ tư tưởng; mục tiêu chính của họ là danh lợi. Theo nhà phân tích Alexander Vuving, nhiều cán bộ cao cấp của Đảng không phải bảo thủ và cũng không cấp tiến, nhưng chỉ đơn giản là những kẻ cơ hội đã tìm được một trạng thái yên ổn. [2] Vuving giải thích như sau: Chủ nghĩa tư bản cho nhiều cơ hội để kiếm lợi nhuận, trong khi chủ nghĩa cộng sản cung cấp độc quyền quyền lực. Sự hỗn hợp của hai yếu tố tạo điều kiện cho việc dùng tiền để mua quyền lực và sử dụng quyền lực để kiếm tiền.

Có lẽ vì quá nhiều các lãnh đạo của họ đã đầu tư vào vị thế hiện tại, ĐCSVN từ lâu đã không thể giải quyết một số vấn đề. Như đã được thấy, một trong những vấn đề đó là lập trường của Việt Nam, một mặt, đối với Trung Quốc, và mặt kia với các nước phương Tây. Một vấn đề khác là vai trò của nhà nước trong kinh tế; nhà nước có nên tham gia vào kinh tế, thông qua việc kiểm soát nhiều doanh nghiệp lớn, hay cần tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước và tập trung vào việc tạo điều kiện cho phép các doanh nghiệp tư nhân phát triển? Ngoài ra, đã có cuộc tranh luận liên hồi trong nội bộ đảng về quản lý thông tin (trong khi thập niên qua, khả năng kiểm soát phương tiện thông tin của nhà nước đang vuột đi) và về việc liệu các hoạt động của đảng nên bị ràng buộc bởi pháp luật và chịu sự khảo sát của quan tòa độc lập.

Tại Đại hội Đảng vào năm 2001, 2006 và 2011, mặc dù đã có nhiều cuộc tranh cãi về nạn tham nhũng lan rộng, quản lý yếu kém và tính chính danh của Đảng đang suy thoái, sự đồng thuận về cải cách đích thực đã vượt quá tầm tay. Mỗi lần đại hội, các chức vụ được phân phối chủ yếu với quan điểm để nhằm duy trì sự cân bằng giữa các phe phái và khu vực. Cán bộ lớn tuổi về hưu và cán bộ trẻ được thăng chức, nhưng bế tắc chính sách vẫn còn đó.
.

Người của thời khắc?

Với một cách lắt léo – cụ thể là, thông qua một bước đi táo bạo để khai trừ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – ĐCSVN tìm cách giải quyết những vấn đề này. Dũng đã gây lo sợ cho các đồng chí trong Bộ Chính trị khi ông ấy, một cách rõ ràng và năng động, xây dựng một mạng lưới chính trị của những người ủng hộ. Đầu tiên là một phó thủ tướng và sau đó là người đứng đầu chính phủ, ông Dũng có khá nhiều sự bảo trợ để phân phát. Ông cố gắng tạo nên hình ảnh một người khôn khéo về các vấn đề thế giới và có khuynh hướng cải cách. Trong một nhóm cầm quyền coi trọng trách nhiệm tập thể, tham vọng của thủ tướng nổi bật lên.
.

Tới giữa năm 2012, đa số áp đảo trong Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên đã bỏ phiếu loại bỏ ông Dũng. Trong tình hình như vậy, phản ứng thông thường là ra đi một cách lặng lẽ. Ông Dũng từ chối. Ông thu về các món nợ chính trị và chiến thắng với sự đảo ngược bất ngờ quyết định của Bộ Chính trị tại một cuộc họp Ủy ban Trung ương Đảng hai tháng sau đó. Được biết, cuộc đấu tranh không gay go. Kể từ đó, Dũng đã điều hành nhà nước Việt Nam như thể sự hợp tác của các đồng nghiệp ở Bộ Chính trị không còn cần thiết.

Được biết, thủ tướng là một kẻ cơ hội khôn lanh, đã đáp lại sự nóng lòng của quần chúng về sự thay đổi. Trong một bài phát biểu đầu năm được hoan nghênh rộng rãi hai năm trước, ông Dũng đã thông qua một ý tưởng cấp tiến rằng: công việc của nhà nước là tạo điều kiện thuận lợi cho người dân bình thường phát huy tiềm năng sáng tạo của họ. Ông đã phân bổ nội các của ông với những nhà quản lý tài năng và hiện nay, các nguồn tin cho biết, ông chăm chú lắng nghe ý kiến của một thế hệ kinh tế gia thông minh được du học ở phương Tây.
.

Những nhà kinh tế đó cho rằng trừ khi cải cách cơ cấu để mang trở lại tốc độ tăng trưởng lên 7% hoặc 8% hàng năm và năng suất lao động gia tăng, Việt Nam sẽ không đạt tới hạng bậc của các nền kinh tế tiên tiến. Đó là do tỷ lệ sinh sản giảm mạnh; lực lượng lao động trẻ, có khả năng, và mức lương tương đối thấp của đất nước – “cơ cấu dân số vàng” – sẽ bắt đầu co lại vào năm 2025. Chính phủ dường như đã lắng nghe lời khuyên. Văn phòng chính phủ đã điều chỉnh các quy định để tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài. Cả vốn và công nghệ đang tràn vào Việt Nam. Việt Nam là một thành viên sáng lập của Hiệp định Thương mại Đối tác xuyên Thái Bình Dương, được ký tắt vào đầu tháng 11. Tuy nhiên, điều vẫn đang được mong chờ là hành động kiên quyết để thu nhỏ khu vực kinh tế Nhà nước và hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân nội địa.
.

Trục xoay của Việt Nam
Chính sách đối ngoại, ông Dũng nói, là hoàn toàn về “xây dựng lòng tin chiến lược.” Trong cuộc theo đuổi bá quyền ở Biển Đông, Trung Quốc đã đánh mất lòng tin của Việt Nam; Mỹ đang trên đường đạt tới – và đó là một sự thay đổi mang tính thời đại, củng cố thêm vị thế của các nhà cải cách Việt Nam.

Khi Bắc Kinh gửi giàn khoan dầu HD-981 vào khu vực có tiềm năng dầu khí thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hồi tháng 6 năm 2014, họ có lẽ mong đợi chỉ có sự van xin không hiệu quả từ phía Hà Nội. Thật vậy, hầu hết các ủy viên Bộ Chính trị đã đáp ứng đúng như thế. Tuy nhiên, ông Dũng phản ứng bằng cách ra lệnh cho các tàu tuần duyên và tàu đánh cá Việt Nam quấy rối đội tàu của Trung Quốc. Sự phản kháng gan dạ của họ đã khuấy lên sự lên án Trung Quốc ở nước ngoài và khuấy động niềm tự hào ở quốc nội.
.

Sau khi Bắc Kinh rút giàn khoan dầu về, giới bảo thủ trong Đảng thừa nhận rằng một tư thế hạ mình về phía Bắc Kinh không còn ngăn ngừa được sự xâm lược. Vì thế, Việt Nam khởi sự tái cân lại quan hệ với hai cường quốc. Trong những tháng sau đó, ủy viên cao cấp của cái gọi là phe thân Trung Quốc của Đảng đã đến từng người một thăm Washington. Cuộc thăm viếng đã được các nhà ngoại giao Mỹ và Việt Nam sắp xếp rất kỹ lưỡng, và các tín hiệu đều tốt. Một năm sau cuộc đối đầu với Trung Quốc, lãnh đạo đảng hàng đầu của Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đã gặp Tổng thống Obama tại phòng Bầu Dục.

“Đó thực sự là một cuộc họp lịch sử. Tòa Bạch ốc thừa nhận cơ cấu chính trị của Việt Nam và vai trò lãnh đạo của Đảng”, ông Trọng đánh giá sau đó.

Một nhà cải cách khác thường và một chương trình cải cách

Tại Đại hội Đảng lần thứ 12 vào đầu năm tới, ĐCSVN sẽ quyết định ai lãnh đạo Đảng cho đến năm 2020. Cưỡi sóng bởi một chuỗi những thành công chính trị, ông Nguyễn Tấn Dũng là người được nhiều hy vọng không chỉ để nắm lấy vị trí lãnh đạo Đảng, mà còn có thể để cài đặt thân tín vào chức Thủ tướng và các vị trí quan trọng khác. Ông Dũng có vẻ như sẵn sàng xuất hiện từ Đại hội với quyền kiểm soát Đảng và nhà nước nhiều hơn bất cứ ai kể từ Tổng Bí thư Lê Duẩn, nửa thế kỷ trước.
.

Tuy nhiên, triển vọng về một Đảng trưởng quá cam kết với cải cách có thể kích hoạt một phản ứng “chọn bất cứ ai ngoài Dũng”. Nhà quan sát Việt Nam kỳ cựu, Carl Thayer, phân tích rằng đó là lý do tại sao các cuộc họp Ban chấp hành Trung ương để chuẩn bị cho Đại hội 12 dường như có rất ít tiến bộ. Đối với nhiều người trong Đảng, đặc biệt là trong các tổ chức cấp tỉnh, thành phố và trong từng doanh nghiệp nhà nước, hiện trạng đang rất thoải mái. Với một số ít Đảng viên, ý thức hệ vẫn còn quan trọng; họ xem lời hứa của ông Dũng về sự cởi mở hơn trong chính phủ như là một mật hiệu về các thực nghiệm nguy hiểm với đa nguyên. Nhưng, đối với đa số, mối quan hệ ràng buộc họ với Đảng là lợi ích riêng tư.
.

Ngoài Đảng, trừ một tập hợp bất đồng chính kiến vẫn tương đối nhỏ, người Việt Nam hiện nay không ở trong tâm trạng cách mạng. Xuất khẩu đang bùng nổ. Thu nhập bình quân hàng năm đã nhích lên đến hơn 2000 USD, gấp đôi so với mức năm 2007. Thông thường, người Việt ngoài đảng chỉ hy vọng rằng Đảng sẽ tự sửa chữa lỗi lầm và cung cấp cho Việt Nam lớp lãnh đạo cương quyết, đứng đắn và công bằng. Họ sợ sự hỗn loạn có thể sẽ xảy đến trong nỗ lực tháo dỡ sự cai trị độc đảng. Càng mạnh mẽ theo đuổi chương trình cải cách, ông Dũng càng được giới bên ngoài đảng yêu thích, đặc biệt là với tầng lớp kinh doanh và chuyên gia của đất nước.
.

Tuy nhiên, để thành công trong vai trò nhà cải cách, ông Dũng phải thuyết phục thành phần đảng viên của ông vứt bỏ “xã hội chủ nghĩa thị trường” (có nghĩa là, sự tham gia trực tiếp vào nền kinh tế) và tập trung vào quản lý kinh tế tiên tiến. Chính sách nên nhằm mục đích tạo điều kiện cho các nhà sản xuất Việt Nam có được tín dụng và công nghệ cần thiết để gia nhập chuỗi giá trị xuất khẩu. Nông dân nên được quyền sở hữu trên mảnh đất họ cày. Doanh nghiệp nhà nước vừa bị thua lỗ lẫn kém sức cạnh tranh phải được giải tán. Phe giáo điều sẽ chống lại, nhưng ý nghĩa kinh tế này thật thuyết phục. Ý nghĩa chính trị cũng vậy: hành động cải cách có tính quyết định sẽ bảo đảm vị thế lãnh đạo của Đảng trong nhiều năm tới.
.

David Brown, nhà ngoại giao Mỹ về hưu, từng làm việc tại Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn từ 1965-1969.


.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.