Hôm nay,  

Hoạ Sĩ người Mỹ Gốc Việt và Dòng Chính Hoa Kỳ

12/1/201600:00:00(View: 6310)

blank
Trịnh Cung.

1.

"Dòng chính" là gì và tại sao phải là "Dòng Chính" (main-stream)?

Ở mỗi quốc gia đều có một xu thế văn hoá riêng, một môi trường xã hội chính trị-kinh tế riêng, một dòng chủ lưu nghệ thuật đang chi phối mọi hoạt động của những ai có liên quan. Tuy nhiên, dòng chủ lưu văn hoá hay là xu thế chính về văn hoá của mỗi quốc gia có mức độ quan trọng khác nhau. Ở những nước yếu, chậm phát triển thì tầm quan trọng của nó chỉ nằm trong giới hạn nội địa, thậm chí nó còn dễ bị các dòng văn hoá mạnh của một số siêu cường tràn vào, làm đổi màu dòng văn hoá bản địa, nhất là ở vào thời đại "toàn cầu hoá" ngày nay.

Vì thế, khi những nghệ sĩ thuộc những quốc gia ở những vùng lục địa kém văn minh, chậm phát triển, khi di cư đến những đất nước phương Tây hoặc Hoa Kỳ, đều phải đối diện với vấn đề "Dòng Chính" nếu muốn hội nhập đúng nghĩa vào môi trường văn nghệ bản địa để thăng tiến sự nghiệp.

Tuy nhiên, riêng với nghệ thuật, để trở thành một hoạ sĩ thuộc dòng chính tại Mỹ là không dễ, rất khó là hiển nhiên, vì đây là một đất nước khổng lồ về mọi mặt, nơi có một số trung tâm nghệ thuật quyền lực nhất thế giới như thành phố New York, như thành phố Los Angeles,...là những nơi tập họp những tài năng nghệ thuật lớn trên toàn thế giới, phần lớn là người da trắng đến từ châu Âu từ hằng chục thập kỷ trước. Thứ đến là người Mỹ gốc Phi châu, họ đã và đang là một thế lực văn hoá có sức phủ sóng rộng lớn khắp nước Mỹ, gây ảnh hưởng rất lớn trong dòng chính văn nghệ Hoa Kỳ. Do vậy, sự quyến rũ của danh vọng ở đây ngày càng tăng đối với giới làm nghệ thuật không chỉ riêng đối với người Mỹ mà cả thế giới. Do vậy, nên khi một nghệ sĩ góc Á châu nào đó đang lưu vong mà chen chân được vào dòng chính ở đây thì được coi như một thành công quan trọng rất đáng hãnh diện, một giấc mơ đã hiện thực.

.

2.

Mỹ thuật của người Mỹ gốc Việt từ Cộng đồng đến Dòng chính tại Hoa Kỳ.

Chắc chắn đây là một vấn đề không dễ trình bày một cách đầy đủ vì nước Mỹ quá rộng lớn, người Việt cư ngụ khá phân tán, dù từ nhiều năm trước cũng đã đến nhiều thành phố như New York, Chicago, San Francisco, Los Angeles, Seattle, Indiana, New Oleans, Houston, tác giả không thể cho rằng những hiểu biết của mình về vấn đề được đề cập như trên là chính xác, chỉ là tương đối, rất cần sự bổ sung của quí thân hữu để cho đề tài được lý giải hoàn chỉnh hơn.

Và xin nhấn mạnh những gì tác giả nêu ra ở đây không có tính phê bình, hay cố tình xúc phạm một nghệ sĩ nào mà chỉ thuần về dẫn giải tình hình hoạt động mỹ thuật của người Việt tại Mỹ, chủ yếu quan sát này chỉ tập trung quan sát về miền Nam California là chủ yếu.

A. Nghệ sĩ Việt lưu vong là của riêng cộng đồng người Việt ở hải ngoại và chỗ đứng của họ mãi mãi là trong lịch sử của nền hội hoạ Việt Nam.

Không chỉ riêng cho mỹ thuật, các bộ môn nghệ thuật khác, các văn nghệ sĩ người Việt lưu vong cũng đều hoạt động cho cộng đồng người Việt tại Mỹ là tất yếu kể từ sau ngày 30-4-1975, vì cả 2, nghệ sĩ và cộng đồng đều cần nhau, dựa vào nhau mà cùng tồn tại. Đó cũng là cách dựng lại một phần quê hương mà họ đã bị tước đoạt sau ngày 30-4-75. Văn hoá là thứ quê hương không ai đánh cướp được của họ và cũng là số vốn cần thiết và quan trọng nhất để họ đứng lên, vượt qua mọi khổ đau, mọi nghiệt ngã để làm lại cuộc đời trên xứ lạ quê người.

Để có một cuộc sống tương đối tốt đẹp, người Việt tỵ nạn phải mất 21 năm làm lại cuộc đời trên đất Mỹ kể từ 1975 đến 1996. 1996 là năm tôi đến Mỹ lần đầu,sau 21 năm. Nếu lấy con số 21 năm như vừa nêu trên cộng với số tuổi của những người bạn như các anh chị: Duy Thanh, Ngọc Dũng, Trương Thị Thịnh, Nguyễn Trí Minh, Vị Ý, Hiếu Đệ, Ngy Cao Uyên, Nguyễn Quỳnh,Đinh Cường,.., lúc sang Mỹ vào khoảng trên dưới 40 tuổi thì cũng đã hơn 50 tuổi thì khó mà có một sự thay đổi lớn trong cách vẽ và tư duy nghệ thuật để phù hợp với "dòng chính" nghệ thuật Hoa Kỳ, hay nói một cách dễ hiểu hơn là tranh của họ với một nội dung đầy tính tự sự của người Việt Nam vốn rất nặng tính hoài niệm quá khứ của dân tộc mình thì làm sao khơi lên được cảm xúc của người bản địa vốn có một nền văn hoá rất khác với VN và chưa đủ thân thiện để dành cho mỹ thuật của những vị khách xa lạ kia một sự quan tâm đáng kể.

Khái quát là như vậy, về thực tế các hoạ sĩ của chúng ta đã tái lập cuộc sống của mình trên đất Mỹ thật cực kỳ khó khăn sau khi đến được vùng đất tự do. Trong số họ có người đem được cả gia đình theo, có người đi một mình, thất lạc vợ con, tất cả đều trắng tay, lạc lõng giữa xứ người mênh mông và lạ lẫm trăm bề.

Trước khi họ có được một cuộc sống tốt đẹp như tôi đã thấy tận mắt vào năm 1996 khi lần đầu được đến Mỹ với tư cách một khách mời của một Trường Đại học thì họ đã phải làm lao động đủ mọi nghề kể cả việc lau dọn nhà vệ sinh để kiếm cơm, họ cũng đã làm báo, làm truyền thanh, ca hát, viết văn, vẽ tranh, làm tượng, diễn kịch, đóng tuồng,...để nuôi nhau, để đồng cam cộng khổ vì "Anh Phải Sống". Một ví dụ, nhà điêu khắc thuộc hàng đầu Việt Nam, Mai Chửng đã bán bánh mì trước cổng các hãng xưởng ở San Jose, sau đó qua Hawaii lái taxi kiếm được nhiều tiền hơn hòng đủ để gởi về VN nuôi vợ và 3 người con, ngoài ra phải để dành đủ để bảo lãnh vợ con qua Mỹ đoàn tụ rồi mới tính tiếp chuyện tiếp tục làm điêu khắc.

Một trường hợp khác, anh Trần Xuân Thành, nguyên là sĩ quan Cục Tâm Lý Chiến, qua Mỹ diện HO, trước khi làm phóng viên nhiếp ảnh cho nhật báo NV, đã làm việc quét dọn cho một nhà thờ ở quận Cam mấy năm đầu định cư ở đây. Các nhà văn, nhà thơ,...nhiều người cũng làm nghề chạy bàn (phục vụ nhà hàng), cắt cỏ, xúc tuyết,...để kiếm sống. Các bác sĩ, thầy giáo, sĩ quan các cấp, các ca nhạc sĩ, vân vân và vân vân cũng chẳng mấy ai có được cuộc sống như ý, như thời hoàng kim của họ trước khi Sài Gòn thất thủ.

Chuyến đi này là một bước ngoặt đối với tôi, nó làm thay đổi cuộc đời tối tăm của tôi sau hơn 20 năm kể từ sau sự thảm bại của Miền Nam Quốc Gia. Tôi được đi nhiều nơi, viếng nhiều bảo tàng mỹ thuật danh tiếng, gặp gỡ nhiều đồng nghiệp nổi tiếng lớp trước, lớp đồng thời và cả lớp vừa tốt nghiệp các trường mỹ thuật của Hoa Kỳ (thế hệ 1,5) như Hoàn Vũ, Long Nguyễn, Ann Phong. Họ sống và làm việc thuộc vùng Orange County và Los Angeles và ngày nay đã thành danh. Trong số 3 bạn ấy, Hoan Vu là (có lẽ) người nghệ sĩ đương đại gốc Viêt đầu tiên được cấp một studio trong khu Bergamot Station Arts Center của Santa Monica-Los Angeles vào khoảng năm 1998. Đây là một trong những trung tâm nghệ thuật đương đại dành cho những tài năng mới đến sống và sáng tác, được sự tài trợ một phần đáng kể tiền thuê nhà nhằm tạo cơ hội cho họ trở thành nghệ sĩ đẳng cấp của mỹ thuật Hoa Kỳ sau một thời gian thử thách nhất định. Có thể coi đây là khởi nghiệp cho mỹ thuật dòng chính Hoa Kỳ của Vũ.

Trở lại vấn đề mỹ thuật cộng đồng và mỹ thuật dòng chính của các hoạ sĩ người Mỹ gốc Việt, thế hệ di tản qua Mỹ sớm và đã từng có danh ở Sài Gòn trước 75 như các anh hay chị: Duy Thanh, Ngọc Dũng, Vị Ý, Nguyễn Trí Minh, Trương Thị Thịnh, Ngy Cao Uyên, Nguyễn Quỳnh,... sau đó là Tạ Tỵ, Hiếu Đệ, Đinh Cường, Mai Chửng, Nguyên Khai, Nguyễn Phước, Hồ Thành Đức- Bé Ký, Nghiêu Đề,...

Tất cả họ đều đứng bên ngoài nền hội hoạ Mỹ (dòng chính) như một tất yếu dù xét về mặt tài năng, họ chẳng kém các hoạ sĩ bản địa.

Có thể đưa ra những lý do sau đây giải thích vì sao các anh chị ấy chọn đứng bên ngoài "dòng chính"

- Là kẻ di tản đến Mỹ với hai bàn tay trắng.

- Môi trường văn hoá hoàn toàn xa lạ. Khó hội nhập được vào xã hội Mỹ. Nước Mỹ quá rộng, họ bị xé rời ra mỗi người một phương. Mọi trật tự và những giá trị mà giới hoạ sĩ như đã kể tên đã tạo ra trong những thập nên 60-70 ở Miền Nam Việt Nam nay đã tan vỡ khi họ phải sinh tồn trong những cộng đồng nhỏ nhoi nằm rải rác khắp các tiểu bang của Hoa Kỳ.


- Làm văn nghệ của giới văn nghệ sĩ người Việt lưu vong, không riêng ở Mỹ, là một nỗ lực có tính níu kéo một quá khứ tốt đẹp một thời nhằm nuôi dưỡng, vực dậy tinh thần của chính họ khi đang ở bên bờ vực tuyệt vọng.

- Cái hoài vọng và tình yêu quê nhà luôn chiếm lĩnh tâm hồn họ nên nghệ thuật của họ là sự nối dài những đề tài quen thuộc từng tạo nên những giá trị được xưng tụng trước ngày Sài Gòn hoàn toàn thất thủ.

- Nếu có một ai trong số họ đã thử thời vận bằng cách đưa tranh mình đến một vài gallery của người Mỹ thì cũng không có kết quả gì đáng kể. Lý do là tranh của hoạ sĩ Việt Nam không chạm được vào cảm quan nghệ thuật của giới chơi tranh chuyên nghiệp người Mỹ (có mục đích đầu tư) nên không mấy ai sưu tập và do đó đã không mang lại lợi nhuận cho gallery.

- Lý do sau cùng là ngoài một số hoạ sĩ thành danh hàng đầu của mỹ thuật Sài Gòn như Tạ Tỵ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Hiếu Đệ, Ngy Cao Uyên,... chủ trương sống yên lặng, một số khác đã khá thành công trong phổ biến và được đón nhận nồng nhiệt tác phẩm bởi những người đồng hương yêu tranh ở khắp nơi trên đất Mỹ như các anh chị hoạ sĩ Đinh Cường, Nguyên Khai, Hồ Thành Đức - Bé Ký, Nguyễn Phước,... nên việc vào dòng chính không còn là điều cần thiết với lớp hoạ sĩ VN thuộc thế hệ có tuổi như đã vừa đề cập.

Tuy nhiên, cũng cần đề cập tới 2 trường hợp đã từng đặt chân, hay đúng hơn là đã có cơ hội không thể tốt hơn để trở thành hoạ sĩ Việt Nam đầu tiên bước vào dòng chính mỹ thuật Hoa Kỳ, tôi muốn nói tới trường hợp của hai anh, một là Võ Đình, hai là Nguyễn Quỳnh.

Võ Đình không phải là hoạ sĩ di tản vì vụ 30-4-75, anh đi du học trước đó, ở Pháp, sau chuyển qua sống ở Mỹ. Hội hoạ của Võ Đình thuộc khuynh hướng Trừu Tượng mang tinh thần phương Đông. Giới quan sát nghệ thuật Tây gọi Võ Đình là Zao Wou Ki VN (hs trừu tượng nổi tiếng thế giới, người Trung Hoa). Thành công đáng ao ước mà Võ Đình gặt hái được là tranh anh đã từng được bày chung với các danh hoạ hiện đại tầm thế giới như Max Ernt, Atlant, Mathieu,... tại một gallery ở New York trước năm 1975.

Riêng Nguyễn Quỳnh, là hoạ sĩ Sài Gòn di tản đến Mỹ vì sự kiện lịch sử 30-4-75. Không như các đồng nghiệp lưu vong khác, anh lao vào việc học và đã đỗ 2 bằng tiến sĩ, một về Lịch sử Mỹ thuật và một về Triết học tại Đại học Colombia, New York, sau khi tới Mỹ. Nhưng đặc biệt hơn hết là hoạ sĩ Nguyễn Quỳnh đã có tranh được Bảo Tàng danh tiếng nhất của Mỹ, Guggenheim ở New York chọn mua trong một kỳ tìm kiếm tài năng trẻ vào thập niên 80 của thế kỷ trước. Đây là một điều kỳ diệu, một giấc mơ vàng, một cuộc trúng số độc đắc không chỉ đối với một hoạ sĩ gốc Việt mà của cả các hoạ sĩ của các vùng lãnh thổ kém phát triển trên toàn thế giới thuộc độ tuổi chưa quá 40.

Thế mà, những cơ hội hiếm hoi như vậy đến với Võ Đình và Nguyễn Quỳnh để trở thành những hoạ sĩ đích thực của dòng chính Hoa Kỳ lại tan thành mây khói chỉ vì họ thiếu một khả năng dấn thân toàn diện cho nghệ thuật. Có nghĩa là họ phải chỉ sống và chết cho nghệ thuật, họ coi việc từ chối tất cả mọi trách nhiệm khác chẳng có liên quan gì đến sáng tác là điều bình thường và bất chấp việc chọn lựa ấy sẽ trắng tay nếu thất bại. Làm được điều như thế, người Việt mình hiếm có ai.

B. Hoạ sĩ người Việt thế hệ trẻ và Dòng Chính Hoa Kỳ.

Đây là vấn đề lớn đối với các hoạ sĩ trẻ người Mỹ gốc Việt nói riêng và giới trí thức trẻ đã được đào tạo tại các Đại học Hoa Kỳ nói chung. Đa số họ đều tự cảm thấy bị kỳ thị bởi người Mỹ da trắng khi họ phải mang trên người những chỉ dấu văn hoá của cộng đồng thiểu số Người Việt lưu vong có xuất thân là "thuyền nhân" hay HO.

Sự kiện cuộc triển lãm mang tên FOB đã được họ tổ chức ngay tại Bolsa, thủ phủ của người Việt tỵ nạn, cách nay hơn 5 năm một cách qui mô để kêu gọi cộng đồng người Việt thôi chống cộng cực đoan, tiến bộ hơn, quên hận thù, đừng kéo giới trẻ Việt vào cái vũng lầy đau thương và thù hận vì mất nước, mất tài sản riêng,... của các bậc cha mẹ mà bản thân họ không hề dính líu gì với cuộc chiến tranh Việt Nam. Và cái cộng đồng "Bolsa" này dưới mắt thế hệ trẻ là một thứ "getto" lạc hậu, một chốn còn bị dè bỉu là "gió tanh mưa máu". Họ cảm thấy xấu hổ và cần phải có một cuộc "đối thoại" để thay đổi, để cắt đuôi quá khứ. Tiến vào dòng chính Hoa Kỳ là mục đích phải đạt tới của hầu hết các bạn ấy.

Đối với mỹ thuật, trên lý thuyết, để vào được dòng chính ở đây là điều không khó vì lợi thế của ngôn ngữ hội hoạ, một ngôn ngữ không cần phiên dịch. Tuy nhiên, lại không dễ như chúng ta tưởng.

Nghệ thuật vốn rất phức tạp và không ngừng thay đổi cả trong phong cách, trường phái và cả thị trường kể từ khi hội hoạ hiện đại ra đời. Nói đến thị trường nghệ thuật thì ngày nay nó là một quyền lực ghê gớm, nó chi phối toàn bộ hệ thống nghệ thuật bao gồm truyền thông, thị hiếu, giá cả, giá trị, tài năng, bảo tàng, gallery, art fair, các sự kiện Lưỡng Niên, Tam niên,... Nói chung là mọi sự sáng tạo muốn hiện hữu, muốn được thừa nhận và lưu thông đều phải qua sự chọn lọc của thị trường và phải trả giá. Hoa Kỳ là một thị trường lớn nhất và mẫu mực không chỉ cho nghệ thuật mà cho tất cả mọi ngành. Mọi tài năng gần như không thể tự trực tiếp giới thiệu sản phẩm của mình với các đại gallery mà hầu như phải nhờ người đại diện chuyên nghiệp hay còn được gọi là nhà môi giới nghệ thuật (art dealer).

Để lọt vào mắt xanh của những nhà môi giới nghệ thuật là một điều cực khó cho hoạ sĩ người Việt. Cho tới ngày hôm nay, chưa thực sự có ai trong các hoạ sĩ trẻ người Mỹ gốc Việt có tranh thường trực tại các gallery thuộc đẳng cấp hàng đầu ở New York, Chicago, San Francisco, Los Angeles,...

Ở đây, cần phân biệt nghệ thuật thị trường và nghệ thuật phi lợi nhuận, một dòng chảy khác của nghệ thuật dòng chính tại Hoa Kỳ và thế giới. Nó không bị chi phối bởi lợi nhuận, nó không bị định hướng thẩm mỹ vì lợi nhuận bằng quyền lực của quảng cáo, người nghệ sĩ không phải bị (được mua độc quyền)lệ thuộc vào nhà môi giới,...vì những tác phẩm của họ rất khác cái thẩm mỹ quen thuộc, phổ cập mà các bậc thầy của nghệ thuật hiện đại đã làm giới chơi tranh nhà giàu phương Tây trở thành những con nghiện

Tuy vậy, không vào được thị trường lớn thì vẫn có thị trường "lô cồ" tại các quận hạt trên khắp nước Mỹ để các hoạ sĩ Việt có thể thành đạt như trường hợp của hs Trương Bửu Giám, chuyên vẽ cá cảnh, rất được giới người Mỹ trung lưu ưa thích, hoặc như nhà điêu khắc Tuấn Nguyen, con trai của kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Nhâm, đã thành công ở thị trường mỹ thuật thương mại dành cho giới người Mỹ trung lưu có thị hiếu nghệ thuật bán cô điển. Lien Trương ở San Francisco và Thu Nguyên ở Hawaii cũng là những khuôn mặt nghệ sĩ gốc Việt thành công trong một chừng mực tại các vùng mà họ cư ngụ. Vậy mỹ thuật dòng chính Hoa Kỳ cũng chẳng khác gì một dòng sông lớn với nhiều nhánh nhỏ không kể đến những kênh đào, mỗi tình thế có những đòi hỏi tài năng thích hợp. Lớn thuyền thì lớn sóng, câu nói này vẫn không sai?

.

3. Kết.

Cuối cùng, mọi thứ dẫn đến thành hay bại trên con đường nghệ thuật đều phụ thuộc vào tâm thức và tài năng của người nghệ sĩ dù các bạn có thuộc màu da nào, dân tộc nào. Dòng chính hay dòng phụ không phải là lẽ sống còn của nghệ thuật, của sáng tạo và của phẩm cách người nghệ sĩ. Điều này không chỉ riêng đối với những ai còn "chân ướt chân ráo" trên đất Mỹ, một quê hương mới đầy tự do và đầy cơ hội nhưng cũng đầy nghiệt ngã.

Tôi tin rằng, tập trung hoàn toàn vào sáng tạo, tác phẩm của các bạn chắc chắn sẽ mãi mãi là những giá trị thật nhất được tạo ra bởi tài năng của các bạn, những nghệ sĩ mang dòng máu và tâm hồn Việt Nam. Các bạn luôn luôn thuộc về nền mỹ thuật Việt và hãy chói sáng trong nền mỹ thuật của dân tộc mình. Thế mà cũng không phải dễ đâu, thưa các bạn.

Bolsa tháng 11-2016

TRỊNH CUNG

Reader's Comment
12/3/201623:30:31
Guest
Trích nguyên văn: “Sự kiện cuộc triển lãm mang tên FOB đã được họ tổ chức ngay tại Bolsa, thủ phủ của người Việt tỵ nạn, cách nay hơn 5 năm một cách qui mô để kêu gọi cộng đồng người Việt thôi chống cộng cực đoan, tiến bộ hơn, quên hận thù, đừng kéo giới trẻ Việt vào cái vũng lầy đau thương và thù hận vì mất nước, mất tài sản riêng,... của các bậc cha mẹ mà bản thân họ không hề dính líu gì với cuộc chiến tranh Việt Nam.” (hết trích)
Chưa nói đến nghệ thuật, có phải tg đã mắc sai lầm thật lớn, khó bôi xoá?; thứ nhất, tg cho rằng cộng đồng người Việt ở đây chống cộng cực đoan, thứ hai là bảo họ tiến bộ hơn có nghĩa là họ đang lạc hậu vì họ chống cộng? thứ ba là cho rằng họ vì hận thù!; thứ tư là con em của họ không dính líu gì đến chiến tranh VN. Không dính líu thật sao?. Tg muốn con em họ, thế hệ kế tiếp . . . quên đi nguồn gốc vì sao họ lại có mặt tha hương để rồi một lần nữa lâm vào cảnh cũ? Một cái nhìn chủ quan hay có chủ ý thiên tả cho rằng người Việt chống cộng cực đoan, thực ra ngưòi ta đã sống qua và không chấp nhận chế độ CS, họ biết CS là thế nào và họ đã TỊ NẠN thì không lý do gì không chống cái mà mình đã liều đánh đổi tất cả để bỏ chạy, tránh xa. Họ đã trở thành nguồn lợi của kẻ trước kia đã truy đuổi, triệt hạ khiến kẻ truy đuổi kia ve vản cho rằng họ lạc hậu, chậm tiến nếu không chiu quên quá khứ, xít lại gần kẻ hành hạ mình . . .
Trích nguyên văn: “Và cái cộng đồng "Bolsa" này dưới mắt thế hệ trẻ là một thứ "getto" lạc hậu, một chốn còn bị dè bỉu là "gió tanh mưa máu". Họ cảm thấy xấu hổ và cần phải có một cuộc "đối thoại" để thay đổi, để cắt đuôi quá khứ. Tiến vào dòng chính Hoa Kỳ là mục đích phải đạt tới của hầu hết các bạn ấy.” (hết trích)
“Dưới mắt thế hệ trẻ nào” mà cộng đồng ra như thế? “HỌ” nào cảm thấy như thế thưa ông tg? “HỌ”: có bao nhiêu người? Tỉ lệ bao nhiêu? Có đủ đại diện cho giới trẻ VN ở đây không? Không có một thống kê, dữ liệu cụ thể nào mà tác giả đã dám miệt thị cả cộng đồng; không biết tác giả đã lỡ lời hay vì cớ gì mà trịch thượng nhận xét chủ quan, hồ đồ quá đáng? Hay là tg có tài liệu thống kê chính xác mà độc giả không biết?
Có mục tiêu chính trị : “để kêu gọi cộng đồng …” thì phải gọi là dùng tranh làm “công tác dân vận” Chữ nghệ thuật không còn được xem như ý nghĩa đích thực của nó nữa! Tác giả định nghĩa thế nào là nghệ thuật? Tác giả đã lầm hay đã hiểu rằng nghệ thuật là một bộ phận tuyên truyền của chính trị, văn hoá, xã hội? qua câu “.. . để kêu gọi …” Định nghiã nghệ thuật đóng khung như thế chỉ có ở chủ nghĩa duy nhất đang ở một số nơi như ở VN mà thôi.
Tác giả đã có công viết bài và nhất là xác định tg là ai qua tư tưởng của mình. Cảm ơn tg.
Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.