(Lời tâm tình: Bài viết về “Sử Việt” chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của mỗi nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt. Trang Sử Việt đăng trên Vietbao Online thứ Ba và thứ Sáu hằng tuần).
________________
NGUYỄN THÁI HỌC
(1902 - 1930)
Nguyễn Thái Học quê phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay tỉnh Vĩnh Phúc). Lúc còn học trường Cao đẳng Sư phạm và Thương mại Đông Dương ở Hà Nội, ông đã gửi thư Toàn quyền Đông Dương là Alexandre Varrenne, đòi dân quyền cho dân tộc. Năm 1926, ông yêu cầu Pháp ban hành luật về tự do báo chí, tự do ngôn luận, Pháp vẫn lơ là.
Năm 1927, ông cùng: Hoàng Phạm Trân, Phạm Tuấn Tài... lập nhà xuất bản “Nam Đồng Thư xã” để truyền bá tư tưởng cách mạng và vạch trần tội ác của thực dân nên Pháp đóng cửa.
Tháng 12 năm 1927, ông thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ), dùng võ lực để giành độc lập và được bầu làm đảng trưởng. Đảng kết nạp đảng viên ở mọi tầng lớp dân chúng và xây dựng nhiều cơ sở. Để tiện việc liên lạc và kinh tài, đảng đã thiết lập nhiều nhà hàng và khách sạn.
Đến đầu năm 1929, VNQDĐ đã lập được 120 chi bộ tại Bắc Kỳ với khoảng 1500 đảng viên. Trong năm này, có cao trào mộ phu, đưa dân đi làm phu cho các đồn điền cao su ở các nơi, như: Miền Nam Việt Nam, Miên, Lào, Nouvelle-Calédonie và Nouvelles-Hébrides, mà những người phu này lại trở thành nô lệ cho các chủ đồn điền. Một trong những người mua nô lệ nổi tiếng tại Hà Nội là Bazin. Thấy vậy, 3 vị đảng viên thuộc một Thành bộ VNQDĐ: Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Lân, và Nguyễn Đức Lung đã tự ý ám sát Bazin vào ngày 9-2-1929, tại chợ Hôm, Hà Nội. Đáng tiếc, chưa được sự chấp thuận của Tổng Bộ đảng. Pháp bắt đầu lo sợ và lùng bắt nhiều đảng viên VNQDĐ đày đi Côn Đảo.
Trước áp lực nặng nề của Pháp, VNQDĐ quyết định tổng khởi nghĩa vào đêm ngày 9-2-1930. Ông nói: “Không thành công thì thành nhân.” (Nếu không thành công cuộc khởi nghĩa này, nó sẽ là nhân tố cho các cuộc khởi nghĩa khác ở tương lai).
Lúc đầu dự tính tổng khởi nghĩa ở Bắc Kỳ, Nguyễn Thái Học sẽ chỉ huy khởi nghĩa ở miền xuôi, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính sẽ chỉ huy khởi nghĩa ở miền núi. Gần tới ngày bùng nổ, cơ sở ở miền xuôi bị Pháp theo dõi gắt gao nên chuẩn bị không kịp cho ngày đồng khởi, Nguyễn Thái Học cử người báo cho Nguyễn Khắc Nhu hoãn cuộc khởi nghĩa tới ngày 15-2-1930, nhưng người liên lạc bị giặc bắt giữa đường. Vì vậy, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra tại các địa điểm từ Sơn Tây, Phú Thọ cho tới Yên Bái vào đêm 9 rạng sáng ngày 10 tháng 2-1930. Tuy cuộc tổng nổi nghĩa xảy ra nhiều nơi khác nhau, lịch sử vẫn đặt tên là Tổng khởi nghĩa Yên Bái. Quân khởi nghĩa đã chiếm được một phần đồn binh Pháp và làm chủ tỉnh lỵ Yên Bái gần hai ngày nhưng sau đấy Pháp phản công chiếm lại.
Mặc dù cuộc khởi nghĩa ở miền núi bị thất bại, Nguyễn Thái Học và cơ sở VNQDĐ vẫn quyết định khởi nghĩa ở miền xuôi như kế hoạch cũ. Tấn công giặc khắp nơi, đêm 11-2-1930, Nghĩa quân chiếm được huyện Phù Dực (Thái Bình). Đêm 12-2-1930, chiếm được huyện Vĩnh Hảo (Hải Dương). Nhưng sau đó bị quân Pháp phản công ác liệt nên thất bại. Ngày 20-2-1930, ông và một số chiến hữu bị bắt ở làng Cổ Vịt, huyện Đông Triều, Hải Dương.
Sau đấy, ông chạm mặt tên Việt gian là Tổng đốc Hoàng Trọng Phu (con tay sai Hoàng Cao Khải), Phu hỏi xấc láo: “Sao lúc ở làng Cổ Am, thầy sẵn có khí giới, không giết bọn tuần phiên mà để bị bắt?!”. Ông đáp: “Khí giới trong tay chúng tôi, dùng để giết bọn tham quan ô lại, bán nước hại dân. Chúng tôi nỡ nào làm hại những người vô tội”.
Sau cuộc tổng khởi nghĩa của VNQDĐ, Pháp trả thù tàn nhẫn và hèn hạ. Chúng cho máy bay thả bom thảm sát cả làng Cổ Am và các làng lân cận.
Sáng ngày 17-6-1930, Nguyễn Thái Học cùng 12 vị anh hùng, cũng là những yếu nhân VNQDĐ, Pháp đưa lên máy chém ở Yên Bái, gồm có:
1- Phó Đức Chính 2- Nguyễn Đức Thịnh
3- Bùi Văn Chuẩn 4- Bùi Tư Toàn
5- Nguyễn Văn Tiềm 6- Đỗ Văn Sứ
7- Nguyễn Như Liên 8- Đào Văn Nhít
9- Ngô Văn Du 10- Hà Văn Lạo
11- Bùi Văn Cửu 12- Nguyễn An
Mọi người hô to “Việt Nam muôn năm” trên đoạn đầu đài, trước khi bị chém, có người hô chưa trọn câu đã bị chém.
Trước khi bị chém, Nguyễn Thái Học ở trên đoạn đầu đài, khí khái ngâm thơ sang sảng bằng tiếng Pháp:
“Mourir pour sa patrie
C’est le sort le plus beau
Le plus digne... d’ envie...”
Nghĩa là: Chết vì tổ quốc
Là chết vinh quang
Lòng ta sung sướng
Trí ta nhẹ nhàng
Nhà ái quốc Nguyễn Thái Học hy sinh khi 29 tuổi.
*- Thiết nghĩ: Các vị anh hùng Yên Bái, vì mong mỏi độc lập cho đất nước Việt Nam mà phải bí mật, sắt son chống Pháp, đến khi bị thực dân Pháp bắt lên đoạn đầu đài, vẫn hiên ngang, kiên tâm không khuất phục với quân xâm lăng cướp nước. Dõng dạc hô to “Việt Nam muôn năm”, thế nên 13 vị anh hùng của VNQDĐ đã ghi lại trang sử Việt rạng rỡ. Riêng anh hùng Nguyễn Thái Học, xem sự hy sinh vì tổ quốc thì nhẹ tợ hồng mao, ông vẫn ngâm thơ hào hùng trên đoạn đầu đài, người Việt vừa kính phục vừa thương tiếc.
Tôi xin trân trọng thắp nén hương lòng kính dâng đến các vị Anh hùng Yên Bái, bằng hai câu:
“Anh hùng Yên Bái, nghìn thu lưu luyến mãi
Sử sách Việt Nam, muôn thuở khắc ghi hoài”.
Cảm phục: Nguyễn Thái Học
Nguyễn Thái Học, yêu nước chứa chan !
Lo lường chống Pháp, cứu giang san!
“Quốc Dân Đảng” giữ gìn nòi giống
Quân ngoại xâm thiêu hủy xóm làng!
Giúp nước, vẫy vùng dù khốn khó
Thương dân, tranh đấu mặc gian nan?!
Pháp trường, lẫm liệt kinh trời đất!
Thần chết lạnh lùng, cũng nể nang?!
Nguyễn Lộc Yên




***Nguyễn Văn Nho cũng theo anh dấn thân vào công cuộc chống Pháp. Bị Hội Đồng Đề Hình kết án tử hình vì hai tội: giết Phạm Huy Du và làm kinh tài cho Đảng.
Chú của Nguyễn Thái Học là Nguyễn Quang Triểu ném bom ở Hà nội đêm mồng 10 tháng 2 năm 1930 cùng bị lên máy chém với Nguyễn Văn Nho.
***Nguyễn Văn Lâm bị Pháp bắt được ở làng Thổ Tang ( tỉnh Vĩnh Yên). Pháp dụ hàng. Lâm mắng lại: " Gia đình tao là gia đình cách mạng, hai anh tao đã chết bởi bàn tay chúng mày; tao không bao giờ lại đi theo quân cướp nước". Pháp nhất định giết. Lâm trả lời : " Nếu chúng mày nhất định giết tao, thì đưa tao về nhà hãy giết".
Pháp đưa Lâm về nhà. Đứng dưới cây dâu già, Lâm vạch áo cho Pháp bắn. Hôm đó là ngày 19 tháng 11 năm 1947.
***Nguyễn Văn Nỉ: Vì còn nhỏ tuổi, nên mãi đến năm 1945, mới tham gia cách mạng. Năm 1948, rút sang Trung Hoa. Năm 1949, Trung Hoa rơi vào tay Cộng sản. Nỉ và một số bạn bị mắc kẹt bên đó.
Đầu rơi, tiếng thét giữa màn tang:
"Vạn tuế Việt Nam" trỗi nhịp nhàng
Chí sỹ đền ân mày quắc thước
Anh hùng tuẫn quốc dáng hiên ngang
Cô Giang lặng lẽ nhìn mây bạc
Thái Học ung dung cưỡi hạc vàng
Yên Bái thiên thu hồn bất tử
Ngàn đời sáng rọi bóng thiều quang
Bửu Tùng
17/06/2015
Thương Nhớ Liệt Nữ Cô Giang
Một nén hương lòng kính dâng liệt nữ Nguyễn Thị Giang nhân kỷ niệm 85 năm ngày bà tuẫn tiết cho tròn lời thề cùng anh hùng Nguyễn Thái Học.
Uất nghẹn trong tim nỗi phũ phàng
Ghi lời tuyệt mệnh chít khăn tang
Lòng nguyền tạ lỗi nơi dương thế
Trí quyết tầm phu cõi suối vàng
Lối nghĩa chung vai hòa trọn vẹn
Đường tình sánh bước mở thênh thang
Ngàn sau nước Việt hoài thương nhớ
Sử tích bi hùng Nguyễn Thị Giang
Bửu Tùng
18/06/2015
Ước chi sẽ có những Nguyễn Thái Học khi thời điểm đến và chín mùi, khi chúng ta sẽ cần rất nhiều NTH khác để đuổi tàu khựa ra khỏi đất nước VN