Hôm nay,  

Tôi biết ơn ông

17/05/201907:20:00(Xem: 6399)

Tôi biết ơn ông

 

blank Thủ tướng Bob Hawke (1929–2019) - Photo: Wikipedia

 

Lưu Dân

(Sydney), 17.05.2019

 

Tin ông qua đời hôm qua 16.05.2019, dù ở tuổi thượng thọ 89, đã làm lòng tôi chùng xuống trong niềm xúc cảm sâu xa.

 

Không phải chỉ vì ông là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của nước Úc thời hậu chiến – và ông hoàn toàn xứng đáng với sự công nhận đó từ nhiều người cùng thời cũng như của thế hệ hậu bối – mà còn là một con người bình dị, gần gũi và thân thiện.

 

Tôi, cũng như nhiều bạn đồng niên khác thuộc “thế hệ thứ nhất” của dòng người tỵ nạn từ Việt Nam, đã sống hầu như gần trọn cuộc đời trưởng thành của mình dưới bóng che bao trùm của ông dù ông đã rời chính trường gần 30 năm. Những cải cách mang tính chất viễn kiến và nhân bản của ông đã xây nên một nền tảng phát triển vững bền cho nước Úc – trong đó có cộng đồng người gốc Việt chúng tôi.

 

Có thể một số người không đồng ý với ý kiến này, nhưng xin hãy công tâm nghĩ lại dù bạn có khuynh hướng chính trị hay đảng phái nào. Khi ông trở thành Thủ tướng thứ 23 của Úc, cộng đồng người Việt tỵ nạn lúc ấy vẫn còn rất mong manh, non trẻ với hàng trăm mối lo toan cho cuộc sống mới. Tuy vị Thủ tướng tiền nhiệm được ghi công chính đáng như là “người mở cổng” cho việc thu nhận thuyền nhân tỵ nạn đến Úc định cư nhưng trong 4 nhiệm kỳ cầm quyền liên tiếp của ông (từ 1983 đến 1991), sự thu nhận định cư cho người gốc Việt ở Úc đã gia tăng đến con số cao nhất so với bất cứ thời kỳ nào về sau. Về nhiều phương diện, đây cũng là thành phần định hình diện mạo của cộng đồng người Việt bây giờ.

 

Với các chính sách cải cách về việc làm, giáo dục, y tế, an sinh xã hội… ông đã tạo ra cơ hội vô giá cho chúng tôi hội nhập và phát triển ở xứ sở kangaroo thanh bình và nhân ái này sau những cuộc vượt thoát thập tử nhất sinh khỏi chế độ cộng sản ở quê nhà. Tôi rùng mình tưởng tượng nếu không có một hệ thống y tế đại chúng Medicare, nếu không có sự giúp đỡ cho học sinh tiếp tục con đường học vấn miễn phí ở bậc đại học, nếu không có chính sách quỹ hưu trí bắt buộc, nếu không có một mạng lưới an sinh xã hội cho những người thuộc thành phần thiệt thòi – và hàng chục thứ “nếu không có” khác mà ông đã thực hiện – có lẽ cộng đồng người gốc Việt đã không có sự thành công như ngày nay.

 

Với một tỷ lệ khá cao trong cộng đồng người Việt bây giờ là thành phần chuyên viên tốt nghiệp đại học, là những thương nhân thành đạt hoặc ít ra là có cuộc sống ổn định, không ai có thể phủ nhận sự giúp đỡ ấy trong bước đầu định cư của họ. Và sự thụ hưởng những chính sách nhân đạo, công bắng và tiến bộ đó mà ông khởi xướng còn tiếp tục lan tỏa đến nhiều thế hệ sau.

 

Tôi không viết lại về tiểu sử và những thành tích của ông trong bài tưởng niệm và tri ân ngắn ngủi này vì điều đó đã được nhiều sử gia ghi nhận, trong đó có một điểm son đáng chú ý: ông là nhà lãnh đạo có lúc đã được 75% dân Úc ái mộ, một tỷ lệ mà bất cứ chính trị gia nào cũng ngã mũ nể phục.

 

Một điều tôi muốn nói thêm: ông là người đã trao cho nước Úc bản quốc ca mới để thay thế cho bài “God Save The Queen” mang âm hưởng mẫu quốc Anh được hát từ nhiều thập niên trước. Theo đề nghị của ông, Tổng Toàn Quyền lúc đó (năm 1984) đã chuẩn thuận bài “Advance Australia Fair” là quốc ca chính thức của Úc. Bài hát có đoạn: For those who’ve come across the seas / We have boundless plains to share / With courage let us all combine / To Advance Australia Fair (Với những người đến đây từ bốn biển / Chúng ta có những bình nguyên bao la để chia sẻ / Với lòng quả cảm tất cả chúng ta hãy kết hợp / Để tiến tới ngày hội của nước Úc). Có lẽ trong nhiều bài quốc ca khác, hiếm có nước nào nói đến sự đón nhận và chia sẻ với những người di cư bằng lời lẽ khoan hòa và thân thiện như thế.

 

Ông còn để lại trong lòng dân Úc hình ảnh của một con người với những biểu lộ tình cảm rất đời thường. Ông xấu hổ khi thú nhận chuyện ngoại tình khi còn sống chung với người vợ đầu. Ông đã khóc nức nở trong một cuộc họp báo năm 1984 khi bị hỏi về việc con gái của mình bị truy tố về tội ma túy. Ông cũng ràn rụa nước mắt trên màn ảnh truyền hình trước tiền đình quốc hội ở Canberra khi cùng các sinh viên Trung Quốc tưởng niệm hàng ngàn nạn nhân bị tàn sát trong biền cố Thiên An Môn năm 1989…

 

Cá nhân tôi, trong nhiều năm làm báo, đã có đôi lần hân hạnh phỏng vấn ông nhưng có lẽ kỷ niệm tôi nhớ mãi lại không phải là chuyện nghề nghiệp. Hôm ấy, hồi giữa năm ngoái, tôi tình cờ gặp ông ở phi trường Sydney. Ông ngồi trên xe lăn và được một nữ nhân viên phục vụ đẩy đến lối đi ưu tiên cho người cao niên. Tôi cúi đầu chào ông theo lối Úc “G’day, Sir!” và xin phép cô nhân viên ấy cho tôi được đẩy ông một đoạn. Dĩ nhiên, đây chỉ là một cử chỉ nhỏ như một lời cám ơn của tôi vì trong số hàng ngàn người ông từng tiếp xúc ông chẳng thể nào nhớ được gã trung niên Á châu ấy là ai. Lúc chào tạm biệt, ông quay lại, thoáng cười và nói một câu rặt Úc “G’on ya, mate!”

 

Bây giờ ông đã ra đi nhưng nụ cười ấy tôi còn giữ lại trong lòng.

 

Với truyền thống “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây” của nền văn hóa Việt Nam, tôi biết ơn ông, Thủ tướng Bob Hawke, người không những chỉ cho chúng tôi cơ hội làm lại cuộc đời mới trên quê hương thứ hai mà còn trao cả một tình người bác ái và bình đẳng.

 

Thành kính chia buồn cùng gia đình ông và cầu mong ông nghìn thu an giấc.


 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.