Hôm nay,  

Con Trai Người Làm Thơ

28/09/202015:44:00(Xem: 3699)


3ff6f398d7469d20e72897e970060750-father-and-son-pastel-paintings


California, những ngày lập thu 2020

Anh C. thân yêu,

Như trong một lần trước, kỳ này anh lại đọc thư mình gởi cho anh trên một tờ báo. Mình lặp lại chuyện này vì những gì mình muốn kể cho anh nghe, một lần nữa, vượt quá phạm vi của một lá thư thông thường. Câu chuyện này, mình muốn kể cho anh nghe vì anh vừa là một là văn, vừa là một nhà giáo; và những gì mình mình sắp kể ra đây cũng có liên quan đến một người cầm bút và một người dạy học.

Nhân vật chính trong câu chuyện là một sinh viên người Cuba. Mình tạm gọi anh ta là Carlos nhé. Carlos là một trong những sinh viên lấy lớp ngôn ngữ học tiếng Tây Ban Nha do mình phụ trách trong khoá học mùa Thu 2020 này, tại một trường đại học của tiểu bang California. Đây là một lớp bậc cao học mà các sinh viên cần lấy trong chương trình Master’s của họ. Phần lớn các sinh viên trong lớp đã trở thành giáo viên, giảng dạy tiếng Tây Ban Nha ở một số trường trung học trong vùng. Một số khác được chọn làm phụ giáo (teaching associate) ngay trong khoa của trường để dạy các lớp tiếng Tây Ban Nha từ trình độ sơ cấp đến cao cấp ở bậc đại học. Carlos là một trong những phụ giáo đó. Tuy được gọi với chức vụ này, các phụ giáo đều trực tiếp giảng dạy các lớp ngoại ngữ của mình chứ không thật sự phụ giúp giáo sư nào cả. Trước khi đưa nhân vật Carlos vào tâm điểm của câu chuyện, mình xin nói qua toàn cảnh của trường lớp năm nay.

Niên khoá mới này, nơi mình đang giảng dạy, vẫn duy trì hình thức dạy và học từ xa vì tình hình COVID ở California, tuy không trở nên trầm trọng hơn, vẫn chưa hoàn toàn khả quan để thầy trò có thể trở lại với bảng đen (à không, bảng trắng thì đúng hơn!) và bàn ghế thân quen. Về phần mình, tuy đã phụ trách lớp này không biết bao nhiêu chục lần từ trước tới giờ, vẫn có tâm trạng hồi hộp cố hữu trước khi lớp bắt đầu. Anh C. nghĩ xem, mình không hồi hộp sao được khi biết sinh viên trong lớp đa số là người bản ngữ, nói tiếng Tây Ban Nha như gió (dĩ nhiên là lưu loát hơn ông thầy!), đã có bằng cử nhân văn chương Tây Ban Nha và, như đã nói ở trên, đang đồng thời dạy thứ tiếng này trong một lớp học nào đó.

Đã vậy, việc dạy và học đều thông qua Zoom, hệ thống teleconference thông dụng nhất đang được đa số các trường đại học, trung học và tiểu học sử dụng trên khắp nước Mỹ. Thầy trò chỉ thấy nhau qua computer. Mình là người thầy, tất nhiên là phải “xuất đầu lộ diện” trên màn ảnh khi giảng bài. Còn học trò của mình, ai thích thì bật video lên, ai không thích thì chỉ để tên trong khung hình của mình. Chắc anh C. cũng đoán được rằng người thích vẫn ít hơn người không thích!

Carlos là một trong những sinh viên hiếm hoi trong lớp mở hình của anh ta lên. Ngay từ buổi học đầu, anh ta đã làm cho mình chú ý vì những câu hỏi hay những lời bình phẩm ngộ nghĩnh của anh ta. Nghe các sinh viên nói tiếng Tây Ban Nha với nhiều giọng từ các nước châu mỹ La Tinh khác nhau vốn đã không phải là điều dễ dàng, nay phải nghe từ computer với âm độ của microphone thay đổi không đều, lại càng nhiều thách thức hơn đối với mình. Với Carlos, mình thấy khó hơn gấp bội, bởi vì anh ta nói giọng rất đặc trưng của miền Caribe. Khi nghe Carlos tự giới thiệu là người gốc Cuba, mình đã cười bảo anh ta:

“À, anh nói loại tiếng Tây Ban Nha của những vùng thường “nuốt” hết các âm “s” ở cuối vần hay cuối chữ đó phải không?”

Carlos vội cải chính:

“Không phải vậy đâu thầy. Đúng là nhiều nơi ở Cuba người ta có nuốt âm “s”, nhưng trong vùng tôi ở ai cũng phát âm nó tròn trịa lắm.”

Tuy vậy, khi Carlos tiếp tục nói, với đôi tai của người dạy ngôn ngữ học trên hai mươi năm, mình vẫn nghe được anh ta nuốt rất nhiều âm “s”. Mình nghĩ thầm: “Chắc anh ta bị chạm tự ái về địa phương ngữ nên không thừa nhận chuyện đó, hoặc cũng có thể tuy là người bản ngữ, nói năng lưu loát, lại không có được nhận xét khách quan về chính ngôn ngữ của mình. Điều này có thể xảy ra cho bất cứ ai chứ không riêng gì anh ta, kể cả anh C. và mình.”

Sau khi thầy trò làm quen với nhau qua màn ảnh Zoom, mình bắt đầu bài giảng đầu tiên, giới thiệu về hệ thống ngữ âm tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh (vì lớp này là lớp phân tích đối chiếu giữa hai thứ tiếng). Giảng được phần đầu, mình ngưng lại cho các sinh viên đặt câu hỏi. Khác với các lớp mình từng dạy qua Zoom ở bậc cao đẳng cộng đồng và bậc đại học, nơi sinh viên đa số khá thụ động, các sinh viên cao học trong lớp này nêu thắc mắc hay góp ý kiến hết sức sôi nổi khiến mình cảm thấy rất hứng thú. Giữa những câu hỏi và các ý kiến khác nhau, Carlos than thở:

“Trời đất, đây là lần đầu tiên tôi học một lớp ngôn ngữ học tiếng Tây Ban Nha, lại còn kèm thêm tiếng Anh nữa! Tôi thấy những gì thầy mới trình bày như là bằng một ngôn ngữ xa lạ nào đó. Tôi không ngờ tiếng mẹ đẻ của tôi lại mang những đặc điểm vô cùng thú vị như thầy vừa miêu tả.” 

Mình để ý thấy cách nói và cách dùng chữ của Carlos có vẻ trội hơn các bạn cùng lớp. Anh ta sử dụng những cấu trúc cầu kỳ và chọn nhiều từ ngữ nghe rất văn hoa, trong khi nhiều sinh viên khác nói năng giản dị, chân phương hơn.

Buổi học đầu tiên hôm đó kết thúc khá mỹ mãn. Tâm trạng hồi hộp của mình tạm biến mất. Thay vào đó là một niềm hứng thú mới mẻ, nhờ vào sự tham gia hào hứng của sinh viên. Anh C. từng đi dạy chắc hiểu rõ điều này hơn ai cả. Chẳng có gì chán cho bằng đứng giảng bài trước một lớp học lặng lờ như một buổi cầu kinh. Tình trạng đó lại càng trầm trọng hơn với kiểu học từ xa qua Zoom như bây giờ. Nhưng may quá, lớp học vừa rồi của mình không phải là một trong những buổi cầu kinh đó.

Hôm sau, mình nhận được email của Carlos. Trong thư, anh ta cám ơn mình đã đem lại một buổi học thú vị, ít nhất là đối với anh ta. Carlos viết: “Tôi là một nhà thơ kiêm nhà văn. Chữ nghĩa tiếng Tây Ban Nha đối với tôi là một kho tàng vô tận, một phương tiện tuyệt vời giúp tôi dàn trải những suy nghĩ, những tâm trạng sâu kín nhất của mình trên mặt giấy. Trong buổi học vừa qua, thầy đã cho tôi thấy một khía cạnh khác, thật lạ lùng mà cũng thật quyến rũ, của tiếng mẹ đẻ của tôi. Tôi hy vọng qua lớp học này, thầy sẽ chỉ ra cho tôi thấy thêm nhiều nét đẹp của ngôn ngữ của Don Quijote này.”

Đọc xong thư, mình nghĩ thầm: “Lạy đấng cao xa! Hoá ra anh học trò này của mình là một nhà thơ, nhà văn! Chữ nghĩa Tây Ban Nha của anh ta chắc là không bờ không bến. Vậy mà mình dám múa rìu qua mắt thợ. Tuy vậy, theo như cái email này, chắc anh ta không đến nỗi thất vọng về mình. Nếu có thì anh ta đã không ưu ái gởi đến cho mình những dòng chữ tử tế như thế. Hẳn là anh ta cũng nghe giọng mình nói tiếng Tây Ban Nha, dù có cố gắng mấy đi nữa, cũng không làm sao tránh khỏi có cái gọi là giọng ngoại quốc lơ lớ trong đó.”  

Mình lại nghĩ, sự đời cũng lắm nỗi éo le. Anh C. xem, một nhà thơ từ xứ Cuba lạc loài đến Mỹ, tình cờ gặp một nhà giáo, từ Việt Nam, cũng lạc loài đến chốn này, để thụ giáo thứ tiếng mà hằng ngày anh ta đùa giỡn với để dệt ra những vần thơ hoa mỹ, hay để viết nên những lời văn sâu xa, bóng bẩy. Đối với mình, từ giờ trở đi, mỗi lần lên lớp là như một lần ra trận. Anh C. hãy cùng mình hình dung ra những lúc mình giảng bài trước cái computer, có một người bên kia màn ảnh đang lắng nghe bằng đôi tai của một người làm văn chương, một kẻ sáng tạo, một người sành sỏi nói thứ tiếng mà mình đang phân tích từ góc độ khoa học. Tưởng tượng ra được như thế thật cũng thú vị, anh C. nhỉ?

Thế rồi một hôm mình nảy ra một ý. Số là lâu nay mình vẫn dịch ra tiếng Việt một số truyện ngắn và kịch của nhiều tác giả viết bằng tiếng Tây Ban Nha từ nhiều nước khác nhau, để gởi đăng trên nhiều tạp chí ở Mỹ, online có, trên giấy cũng có. Mình viết cho Carlos: “Tôi cũng thích văn chương lắm. Tôi vẫn thường dịch truyện từ tiếng Tây Ban Nha ra tiếng Việt để đăng báo. Nếu anh vui lòng, anh có thể để tôi dịch một truyện ngắn của anh để giới thiệu đến độc giả người Việt không?” Carlos trả lời thư mình viết, nói rằng rất hân hạnh được mình làm việc đó. Anh kèm theo email, không phải một, mà đến hai truyện ngắn.

Sáng hôm sau là Chủ nhật. Mặc dù còn bề bộn biết bao nhiều bài vở phải chuẩn bị cho tuần học tới, mình dẹp tất cả qua một bên để ngồi trước cái laptop, mải mê dịch truyện của Carlos. Mình phải làm gấp như vậy vì, ngoài nguồn cảm hứng đang dào dạt của mình, còn có vấn đề thời gian tính. Mỗi lần gởi bài đi, lâu lắm toà soạn mới chiếu cố đến mình vì bài vở đóng góp bao giờ cũng nhiều. Mình chỉ sợ khoá học sẽ qua mà truyện của Carlos chưa đăng kịp thì tiếc lắm.

Truyện mình chọn dịch có nhan đề là “Con Trai Người Thợ Rèn”. Đây là một truyện khá đặc biệt, thuộc thể loại hiện thực ảo (‘magical realism’). Mình đã từng dịch nhiều truyện loại này, nhưng truyện ngắn của Carlos vẫn làm mình ngạc nhiên. Mới đọc qua, truyện không có gì là “ảo” cả, kể về một người thợ rèn và người vợ trẻ. Sau một thời gian cầu xin thượng đế, hai vợ chồng đã có được một mụn con trai. Không may, khi đứa con hãy còn nhỏ, người vợ bị một đám lính của một lãnh chúa trong vùng hãm hiếp rồi giết chết, trớ trêu thay, bằng chính một con dao mà người thợ rèn đã làm ra. Điều đáng nói là nhân vật xưng tôi kể lại câu chuyện này thật đặc biệt, có một không hai: đó chính là thượng đế! 

Truyện dịch xong, mình gởi đăng và kèm theo một chút lai lịch đặc biệt của tác giả và mối quan hệ của anh với dịch giả cho ban biên tập xem (tất nhiên là chi tiết này không xuất hiện trên báo). Có lẽ lấy làm thích thú về chi tiết đó, cũng như với nội dung khá lạ của câu chuyện, ban biên tập cho đăng ngay truyện ngắn này. Mình rất vui và chuyển ngay cho Carlos xem. Anh ta cũng vui không kém, tuy không hiểu những dòng chữ bằng tiếng Việt mô tê như thế nào. Carlos khoe với mình rằng đã cho một số bạn người Việt xem truyện, như một cách giới thiệu trực tiếp về tác phẩm của mình.

Sau khi truyện được đăng, cả Carlos và mình đều bận rộn nên mình cũng không có dịp trao đổi ý kiến với anh ta về ý nghĩa câu chuyện mà mà anh ta đã sáng tác. Tuy nhiên, những ngày sau đó, mình vẫn suy nghĩ nhiều về câu chuyện bi thảm này. Truyện tuy ngắn mà chuyển tải thật nhiều thông điệp. Đó là cuộc sống của những người bình thường, với những ước vọng bình thường, sống dưới áp bức của giai cấp cầm quyền và gặp phải những hoàn cảnh đau thương. Bên cạnh đó, câu chuyện như còn nêu lên nghi vấn muôn đời của nhân loại: Thượng đế có hiện hữu hay không? Và nếu có thì thật đáng buồn khi ngài phải thúc thủ trước những thảm kịch của nhân loại mà chính ngài đã tạo dựng ra.

Lúc dịch trong truyện ngắn đó, mình có yêu cầu Carlos gởi cho mình một tấm hình chân dung và một đoạn tiểu sử để mình kèm vào bài gởi đi. Carlos sốt sắng gởi cho mình ngay. Đọc những dòng tiểu sử của anh ta, mình thấy thán phục quá. Hoá ra Carlos là hội viên của hội những nhà làm nghệ thuật của Cuba và đã từng đoạt nhiều giải thưởng về thi ca. Anh ta có khoe với tôi rằng không bao lâu nữa, anh hy vọng sẽ có cuốn truyện dài đầu tiên xuất bản. Anh C. đã từng có sách xuất bản, chắc anh hiểu cảm xúc của một người cầm bút như thế nào khi thấy tác phẩm đầu tiên của mình ra mắt độc giả.

Thế là thầy trò, dù đôi bên cùng rất bận, vẫn thỉnh thoảng gởi email cho nhau. Càng ngày, Carlos càng thố lộ nhiều tâm sự với mình. Mỗi bức email của anh ta, mình thấy như là một bài thơ nho nhỏ, chất chứa tài hoa và tâm tình của một người nghệ sĩ. Như mọi lần, Carlos vẫn dùng nhiều từ ngữ văn hoa mà chỉ thường tìm thấy trong văn chương, thi phú, chứ ít khi nghe ở ngoài đời thực. Vốn liếng ngữ vựng của mình trong tiếng Tây Ban Nha, ngược lại, nằm ở một lãnh vực khác, rất máy móc và khô khan, chỉ có một điều giống với chữ nghĩa của Carlos là chúng cũng chẳng bao giờ được dùng trong cuộc sống hằng ngày.

Carlos cho biết, anh ta đang phải đánh vật với nhiều công việc đa đoan, buổi sáng làm thầy giáo, buổi chiều làm học trò. Anh còn nói thêm là phải “lo toan cho hai gia đình cùng một lúc”. Mình đoán đó là gia đình của anh còn ở Cuba và gia đình ở Cali. Mình cũng tò mò muốn biết gia cảnh của anh ta ra sao, cũng như về duyên cớ nào anh ta đã qua được Mỹ, nhưng không tiện hỏi. Một người thầy không nên tỏ ra quá hiếu kỳ như thế.

Tuy nhiên, mình vẫn được biết thêm đôi chút về Carlos. Anh ta cho biết, qua một email ngắn, rằng vì lớp học có nội dung phức tạp quá, anh ta có nhờ vợ cùng ngồi nghe bài giảng với anh. Anh giới thiệu cô vợ có mẹ là người Mễ Tây Cơ và cha gốc Peru. Anh còn khoe là cô rất thông minh, bén nhạy, hy vọng có thể giúp anh về mặt ngôn ngữ học của tiếng Tây Ban Nha.  

Mình trả lời, bảo rất vui khi biết bây giờ Carlos đã có “phụ tá” trong lớp học. Mình còn viết, nửa đùa nửa thật: “Vui cũng có, mà lo cũng có. Bây giờ tôi tự hỏi tôi là ai mà dám giảng bài về tiếng Tây Ban Nha cho hai người bản ngữ như anh chị? Hy vọng tôi sẽ không phụ lòng anh chị nhé.”

Vì bây giờ đã biết Carlos có gia đình, mình mới hỏi hai người đã có con cái gì chưa. Để công bình cho cả hai bên, mình cũng cho anh ta biết rằng vợ chồng mình có hai con, một trai, một gái. Mình viết thêm, khá văn hoa (có lẽ do lây cái tài văn chương của Carlos): “Con cái là nguyên do mang lại những giờ phút vui vẻ cho chúng tôi, mà cũng là kết quả của những giờ phút thao thức không ngủ vào ban đêm.”

Trong buổi học vừa rồi, phía bên Carlos dường như có nhiều trục trặc kỹ thuật, hay về chuyện gì khác cũng nên. Âm thanh micro của anh ta không đều, lúc to, lúc nhỏ, làm giọng Cuba của anh vốn đã khó nghe đối với mình lại càng khó nghe hơn. Có lúc màn ảnh của anh hoàn toàn biến mất, rồi một lúc sau anh mới trở lại. Gần cuối giờ học, trong nhiều tiếng lao xao của sinh viên trong lớp, tôi nghe giọng Carlos phân trần, xin lỗi tôi vì anh không được khoẻ và gặp trục trặc về internet nên có lúc bị gián đoạn. Mình chỉ cười và nói không sao.

Sau buổi học hôm đó, mình lại nhận liên tiếp hai cái email của Carlos. Mình chưa kịp trả lời cái trước thì đã nhận cái sau. Anh ta cám ơn mình đã chia xẻ chuyện gia đình với anh, đồng thời than thở là đang bị chứng đau lưng tái phát (Carlos chưa đến 40 tuổi) và mới nhận tin không vui từ quê nhà. Anh ta viết: “Tôi cũng có một đứa con trai đã 15 tuổi. Thật ra, đó là con của người chị tôi. Tôi nhận nuôi cháu đã từ lâu vì mẹ cháu bệnh hoạn triền miên, không thể lo cho chính bản thân chứ đừng nói đến lo cho con cái. Khi bỏ cháu sang đây, tôi đau lòng khôn tả. Tôi vừa nhận tin chị tôi đang trở bệnh nặng bên quê nhà. Tôi khổ tâm quá mà thấy bất lực, không làm gì trong lúc này được cả.”

Carlos còn viết thêm: “Tôi phải xin lỗi thầy vì tôi học hành trong lớp chưa tới nơi tới chốn. Chính tôi mới là người đang phụ lòng thầy. Qua cách thầy giảng bài và thảo luận với chúng tôi trong lớp, tôi cảm được tất cả những đam mê và hứng thú mà thầy đem hết vào môn học thầy dạy. Tôi không dám viện cớ này cớ nọ về gia đình hay công việc để biện minh cho những thiếu sót của mình. Tôi chỉ xin hứa với thầy là tôi sẽ cố gắng nhiều hơn, cho thầy và cho cả chính tôi. À, còn về chuyện con cái thầy hỏi thăm, vợ chồng tôi cũng đang mong có một cháu bé càng sớm càng hay.”

Trong đời đi dạy của mình, cũng lắm khi mình có những mối quan hệ đặc biệt với một vài sinh viên, vượt quá giới hạn bài vở, trường lóp, khi thầy trò cùng san sẻ tâm sự, vui buồn trong cuộc sống cá nhân. Đối với những sinh viên đó, mình có một ngăn riêng trong tim để giữ lại những hình ảnh khó phai nhoà về các em. Lần này, mình lại thấy những xúc cảm đó đối với Carlos. Đọc xong email mới nhất của anh ta, mình bồi hồi ngồi thừ ra một lúc. Hoá ra đằng sau mỗi con người là cả một thế giới muôn màu, vui có, buồn có, mà nhiều khi dường như buồn lại còn nhiều hơn vui. Nghĩ như vậy, mình chợt nhớ đến hai câu thơ mình viết đã lâu lắm rồi, khi còn ở Việt Nam, lúc chỉ là một thanh niên mới lớn đã sớm biết buồn: “Mỗi người là mỗi cơn đau, mỗi người là mỗi cơn sầu thiết tha.” Nghe “sến” quá, nhưng chắc cũng có phần đúng, phải không anh C.?

Cũng là một người cha, mình có thể phần nào cảm được tâm tình của Carlos khi phải xa con của anh như thế nào, tất nhiên là không thấu hết được những trăn trở của riêng anh, vì chỉ có ở trong cuộc mới biết được nỗi buồn đó sâu xa đến ngần nào. Rồi mình lại tưởng tượng đến nỗi buồn nhớ cha của cậu bé con Carlos ở quê nhà, một nỗi buồn vừa hồn nhiên, vừa tội nghiệp, cũng bất lực như người cha không thể nào một sớm một chiều bay về với cậu để an ủi nhau trong những lúc khó khăn này.

Thốt nhiên, mình thấy rõ ràng rằng có một mối liên hệ giữa câu chuyện “Con Trai Người Thợ Rèn” và cha con Carlos. Không biết anh ta có gởi gấm tâm sự của mình vào câu chuyện đó hay không. Người nghệ sĩ thường nhìn những sự kiện trong đời sống của mình bằng cặp mắt rất khác thiên hạ. Họ “nghệ thuật hoá” các tình tiết hay tâm trạng của chính mình trong cuộc sống, biến chúng thành những tác phẩm đầy sáng tạo. Qua đó, họ làm thăng hoa cái đẹp hay hạnh phúc, nhưng nhiều lúc cũng bi thảm hoá những nghịch cảnh, những nỗi buồn. Bằng chữ nghĩa, nhà thơ, nhà văn thêm cường độ, nồng độ vào thực trạng, tạo nên một chiều thứ tư cho những hoàn cảnh tự chúng đã vốn là ba chiều, vốn đã hết sức sống động. Cũng như trong hội hoạ, các bức tranh bao giờ cũng mang màu sắc thật nóng, thật lạnh, hay thật nổi trội, đối nghịch hẳn với màu sắc bình dị trong cuộc sống thường ngày, nhưng đồng thời cũng thật hiệu quả vì chúng giúp lột tả tất cả những gì con người không thể đạt tới bằng cách biểu hiện qua những phương tiện tầm thường.

Trong truyện ngắn “Con Trai Người Thợ Rèn”, Carlos đóng vai thượng đế để kể lại một câu chuyện thương tâm, mà đoạn kết là cảnh hẩm hiu của người cha gà trống nuôi con. Mình nghĩ, chắc đến một lúc nào đó, anh nhà thơ-nhà văn-thầy giáo-sinh viên-người cha này sẽ ngồi xuống viết một câu chuyện khác. Trong đó, mình tưởng tượng, Carlos sẽ kể chuyện qua nhãn quan của cậu bé có người mẹ bệnh hoạn, phải sống xa người cha nuôi mà cậu hằng thương yêu. Một ngày của cậu ở ngôi làng nhỏ ở Cuba ra sao? Tuổi vừa lớn của cậu, với hoàn cảnh gia đình, với những sinh hoạt hằng ngày như thế nào? Cậu mơ ước những gì? Nỗi buồn của cậu khắc khoải đến đâu? Cậu muốn nhắn nhủ điều gì với tất cả những cậu bé cùng tuổi may mắn có đầy đủ cha mẹ vui vẻ, khoẻ mạnh?

Anh C. thân yêu, mình muốn kết thúc lá thư/câu chuyện của mình lần này bằng những câu hỏi như vậy. Câu hỏi thì bao giờ cũng nhiều hơn câu trả lời. Câu hỏi làm chúng ta còn chút gì tò mò, háo hức để sống. Tưởng tượng một thế giới chỉ toàn là những câu trả lời, chắc sẽ nhàm chán lắm. Mình còn rất nhiều câu hỏi dành cho Carlos, nhưng mình sẽ không hỏi anh ta đâu. Mình muốn giữ một chút háo hức trong đời sống. Còn anh C. của mình nghĩ như thế nào? 

Thân chúc anh C. và gia đình luôn an vui trong những ngày tháng đầy âu lo này.

Người bạn xa thăm thẳm của anh.

Trần C. Trí

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.