Hôm nay,  

Artem Chapeye
Artem Chapeye (1981 - Hiện tại.)

 

Nhà Văn Ukraine Vừa là nhà văn, nhà báo, dịch giả. Đã bốn lần vào chung kết của giải BBC Ukraine Book hàng năm. Sinh quán tại Kolomyia, phía tây Ukraine. Sinh sống tại thủ đô Kyiv. Trong cuộc chiến với Nga 2022, tháng 3, ông di tản gia đình đến nơi an toàn, rồi trở về đăng lính bộ binh Ukraine, chống quân Nga. Tốt nghiệp triết học tại Kyiv Mohyla Academy năm 2008. Nhận học bổng của Central European Initiative và giải Paul Celan cho dịch thuật.
  
Tôi và cô ấy cùng mang một lòng yêu nước da diết. Ai đó có thể nhận xét, đây là một loại tình yêu bực bội không vừa ý. Tôi đã từng nói, tôi yêu quê hương với một chút khổ dâm. Còn cô ta nói, tình yêu bất chấp đau khổ. Đó cũng là cách chúng tôi yêu nhau, qua nỗi đau và một chút điên rồ.

Hầu như mỗi cuối tuần, cô ấy và tôi đều đi đâu đó bằng tàu điện hoặc xe buýt. Ở Ukraine, có thể đi xa trong cuối tuần và trở về đúng thời hạn. Chỉ một lần chúng tôi về trễ, đi làm muộn hôm thứ hai. Đó là ngày chúng tôi đón xe đi nhờ từ Milove, vùng Luhansk, vào tháng Giêng. Đây là nơi cực điểm miền đông của đất nước. Đi đến bằng xe buýt, lúc quay về, chúng tôi cầm tay nhau đi bộ dọc con đường phủ đầy tuyết. Thuở đó chúng tôi say mê nhau. Những anh chàng ở nhà bốn cửa kiểu Liên Xô cho chúng tôi đi nhờ, không có vấn đề, ngoại trừ mỗi lần họ chỉ chở chúng tôi vài kilô mét, rồi thả xuống để rẽ vào làng của họ. Nhìn ánh sáng xanh ngát buổi hoàng hôn, chúng tôi rùng mình và cảm thấy hạnh phúc.

Đúng như vậy, những thứ ở Ukraine làm chúng tôi yêu thương một cách u buồn, điều này khiến cho nhiều người quen cảm thấy khó chịu. Tiếng các mảnh kim loại va chạm bất ngờ trên các xe buýt liên tỉnh. Các chương trình hài kịch khủng khiếp kéo dài nhiều giờ bắt buộc phải xem như "Khu Phố Buổi Tối". Những màn ảnh truyền hình phẳng ở các trạm xe buýt cao cấp, chẳng hạn như Dnipro, nơi dàn loa ầm ỉ chói tai, ví dụ nghe một đoạn nói Rap ngắn: "Cảm giác đẹp nhất là khi anh nổi bật hẳn ra khỏi đám người", do một nghệ sĩ Ukraine trình diễn, lấy tên họ bằng chữ La mã vì cho rằng sẽ được người tây phương chú ý. Mùi rượu chua bốc lên từ các giường tầng dưới thấp, trong bóng tối mập mờ của xe giường nằm hạng bình dân, trong khi chúng tôi cố gắng dỗ giấc ngủ trên tầng giường cao nhất. Mùi cà phê tan trong ly nhựa. Mùi xúc xích kẹp trong bánh mì. Thức ăn bình dân ở ga xe lửa, như chả lá cải, bánh gói nhân thịt; nhớ lại lúc đó, tôi vẫn thắc mắc, vì sao cô ta không quan tâm đến sức khỏe.

Hoặc những gì nhẹ nhàng hơn: Bà mẹ mập mạp và cô con gái ngồi xổm nói tiếng Surzhyk, ngôn ngữ kết hợp giữa tiếng lóng Nga và Ukraine. Họ nhìn rất giống nhau, cắt tóc ngắn, da sẫm, khuôn mặt rộng, má ửng màu củ cải, ai có thể không xinh đẹp như vậy, nếu không có đôi mắt to xanh xám! Họ là chủ quán cà phê bình dân ở nhà ga trong một thị trấn ít ai biết, với những chiếc bàn phủ khăn dầu bị rách bởi những vết dao của các thực khách bất cẩn. Cô con gái đã dùng giẻ xám chà xát mặt bàn trước khi bưng đĩa thức ăn do mẹ cô chuẩn bị cho chúng tôi. Tính hết bữa ăn này giá tiền chưa đến một đô-la. Gồm có khoai tây nghiền với bơ nóng chảy ở giữa, sườn heo chiên giòn và nước anh đào ép tươi đựng trong cốc. Trên chuyến xe buýt Dotnetsk, những người mặt xám chì, không thấy nụ cười, trông mệt mỏi sau khi nhiều giờ làm việc. Những lá thu ẩm ướt rải rắc trên các lối đi trong vườn Storozhynets ở Chernivtsi, nơi chúng tôi ghé đến chỉ để dạo quanh. Có thể, chúng tôi là những người hiếm hoi bỏ cả ngày du ngoạn trong một thị trấn, chen lấn, không có gì đáng xem.

Cô ta trích dẫn Serhiy Zhadan mà cô yêu thích: “Ya liubliu tsiu krainu navit bez kokainu” (Tôi yêu quê hương này mặc dù không có bạch phiến.) Tự nhiên, tôi buông miệng nói tiếp, "và cũng không có thuốc an thần." Đó là lúc cô ngừng dùng thuốc chống trầm cảm; cô nói, việc này khiến cô lên cân. Đây là điều phù phiếm nhất mà tôi nhận thấy từ cô trong bao năm quen biết.

Giờ đây, cô ấy luôn luôn hiện lên trong tâm trí tôi cùng với dòng thơ của thi sĩ Tom Waits mà tôi yêu thích: "Nàng là thiếu nữ trung lưu…" Cô ta đã sống vài năm ở Mỹ. Cha cô sang đó, cần gấp rút kiếm một số tiền và mang cô theo. Sau khi tốt nghiệp đại học, cô lấy chồng và nhanh chóng ly dị. Tôi rất ghen tị quá khứ này, nên hiếm khi nhắc lại chuyện bên đó.

Một lần, cô nói, bạn bè cô ở Mỹ, ngay cả người chồng cũ, thường gọi đất nước này là "the Ukraine", có mạo từ đứng trước để xác định, mặc dù, họ biết trong tiếng Anh, chỉ cần nói "Ukraine", nhưng lưỡi của họ vẫn tiếp tục phát âm "the" theo phản xạ. (*) Cô hỏi người chồng, tại sao? Sau một hồi suy nghĩ, anh ta trả lời: "Tôi nghĩ là tại âm U, như the U.S., the U.K., the Ukraine. Hai đứa tôi bật cười vì giải thích như vậy. Rồi từ đó trở đi, chúng tôi bắt đầu để ý và chỉ cho nhau những hoàn cảnh, những trường hợp, phải nói "the Ukraine" mới đúng, ngoài ra, cơ bản đã có Ukraine, nhưng trong thực tế, cũng có the Ukraine - một "voilà-Ukraine". Một Ukrainian Dasein.

Ví dụ, những đàn ông trung niên đội mũ lưỡi trai, râu mép dài, áo khoác da bên ngoài áo ấm. Những phụ nữ trung niên đội mũ rộng đan bằng len. Những nữ sinh viên trở lại ký túc xá sau khi nghỉ cuối tuần về nhà. Mang giày ủng trắng thời trang, họ bước qua các vũng bùn lầy lội, tay nắm chặt những túi đựng đồ bằng nhựa ca-rô, những ngón tay đỏ ửng vì lạnh, cố gắng không làm hư những móng tay mới vừa sơn. Một bà già mặc áo khoác nâu dài đến mắt cá, mang giày thể thao trắng rẻ tiền, đang gọt táo trên chiếc xe chở hàng. Người tài xế già nua mái tóc xù màu vàng ngồi sau tay lái trong một dòng xe cộ đông nghẹt ở Donetsk, đang bình tĩnh hút thuốc, nhìn qua cửa, theo dõi đời sống.

Một đêm trăng xanh, trong những đợt sương tồi tệ nhất hoặc dưới những cơn mưa dầm, cô nhốt tôi vào chiếc xe Skoda Fabia màu đỏ, quà tặng của người cha. Cô ấy có bằng lái. Chở tôi đi xem quê hương nhưng bị ngăn cách với đồng bào bởi kính xe và âm nhạc: hầu hết, Tom Waits, vì một số lý do, hoàn toàn phù hợp với Ukraine. Nhưng sau cùng, chuyến đi khiến tâm trạng cô không vui, có lẽ, vì kính và âm nhạc ngăn cản. Chỉ có thể nhìn ngắm, nhưng không thể trải nghiệm, không thể xác định. Cuối tuần sau, sẽ mua vé xe buýt hoặc tàu điện để được sống giữa dân chúng.

Đối với chúng tôi, The Ukraine là một bến xe buýt mới, khổng lồ, trống trải, phủ đầy tuyết, ở ngoại ô Cherkasy. Không thể hiểu, tại sao bến lại quá lớn và trống vắng. Hai đứa tôi đứng giữa cánh đồng ngập tuyết, dưới tàng cây, lẻ loi, lạnh cắt da. Đối diện, một chiếc xe buýt nhỏ hiệu Mercedes Sprinter màu trắng. Tôi bước đến, mở cửa, người tài xế quát, "Đóng lại. Hơi lạnh vào. Đây không phải là địa điểm dừng." Chúng tôi đành đứng chờ, thổi những ngón tay cho nhau, mười lăm phút sau, anh tài xế lết xe được mười lăm mét. Mặt cô đỏ bừng trong không khí đông lạnh. Trong xe cũng vậy, hơi thở trở thành hơi nước.

Trả tiền cho tài xế, ông ta càu nhàu. "Đây là điểm dừng", cô cười khúc khích rồi thì thầm vào tai tôi, "Đây là Ukraine."

Nói chung, cô ấy dễ cười, đôi khi có khiếu hài hước đen. Ví dụ, một lần ở Khotyn, chúng tôi chụp ảnh selfie trước cửa hàng có tên gọi là "Đồ dùng và phụ tùng cho nhà quàn". Cô ta bật cười sảng khoái rồi nói, đây cũng là Ukraine.

Khi xe ngưng lại trên xa lộ phía bắc Rivne, một bà già mặc áo khoác da cừu bốc mùi bò và cỏ khô, một số hành khách quay mũi sang phía khác, vì họ không biết bà này thực sự là người Ukraine.

Bà là phụ nữ gương mẫu, mặc y phục dân gian chính thống, đeo ru băng trên tóc, cầm bánh mì và muối trên một khăn thêu cổ truyền, tuy là đồ giả, nhưng bức hình thêu xơ xác trên khăn là lối vào ngôi làng, có một phụ nữ Ukraine với ru băng trên tóc, nhưng bị mất một mắt, đó là Ukraine bây giờ.

Ukraine cũng là sự lãng mạn đang suy giảm: Tòa lầu cao xây bằng bê tông chưa hoàn tất ở ngoại ô Kamiaets-Podilskyi. Hồ nước xanh tím sâu không đáy trong mỏ đá ngập nước ở Kryvyi Rih, nơi có thể nhìn từ đống đá cao, cảm giác kinh sợ khi chứng kiến cảnh một vận động viên chậm rãi bơi ếch, trồi thân mình cao lên khỏi độ sâu không thể tưởng của đáy hồ như những phim trợt nước nguy hiểm. Một sự tàn phá từ tốn thể hiện trên ngôi nhà thờ ở Lviv, bị xám xịt bởi những cơn mưa; những tượng người Nga thời khai lập bằng thạch cao trắng phai màu với kèn hạ thấp ở Kremenets, trong con hẻm giữa các hành lang xẻ núi, giữa những cánh đồng cỏ khô dày đặc. Trại Tiền phong bỏ hoang bên ngoài Mariupol, nơi chúng tôi ngồi trên các xích đu rỉ sét, tay cầm bình nước giữ nóng, nhìn ra biển Azov, nơi những đợt sóng đẩy nhau vào bờ bị đóng băng. Ngay cả ở thủ đô Kyiv, giao điểm lưu thông bằng bê tông xám nhiều tầng tại trung tâm giao thông Vydubychi, những ống khói các nhà máy năng lượng TET bao quanh, tỏa ra những làn khói dày đậm lên nền trời xanh thẳm. Chúng tôi lang thang lướt qua bên ngoài bề mặt của Ukraine, nhìn xuyên những ô kính xe mờ hơi sương.

Trong những năm sau cùng, cô ta phải điều trị vào mùa hè, chúng tôi không còn đi du lịch nữa. Đó là lý do, những chuyến đi tôi thường nhớ lại, là vào cuối thu hoặc đầu xuân, khi nhan sắc của đất nước có mà xám, rỉ sắt, vàng úa và xanh lá cây non. Những con đường nhỏ dọc theo các hành lang rừng đầy những cây dương hoặc bạch dương, hầu như không quanh co dẫn qua những ngọn đồi, đưa đến những nơi lạ lẫm, chưa bao giờ viếng thăm. Chúng ta sẽ cảm thấy sự thôi thúc, phải dừng lại, leo ra khỏi xe buýt, thực sự đi bộ, nhìn ngắm những nơi chưa đến, chưa một lần ghé qua.

Một lần kia, tôi ngủ gật tựa đầu lên chiếc mũ kê vào mặt kính ẩm ướt, khi tỉnh dậy, qua khung cửa sổ, thấy ngay cạnh đường, những đợt sóng lớn và có vẻ giống kim loại đã đóng băng.

Tôi hỏi cô: "Có phải là hồ chứa nước uống không? Chúng ta đang ở đâu?"

Cô cười nhẹ rồi vuốt ve mang tai tôi.

"Dụi mắt đi."

Những con sóng đóng băng đó hóa ra là một gò đất đen lớn đã cày xới.

Một lần khác, ban đêm, sau vành đai khu rừng trơ trụi trong tháng Mười một, chiếc máy kéo đang chạy chiếu bốn đèn pha chói mắt, hai đèn trên cản xe và hai đèn trên trên phòng lái, tôi đặc biệt thấy chi tiết này lãng mạn, không hiểu vì sao, có vẻ huyền bí. Rồi thêm một lần, tài xế xe buýt nhỏ dừng lại quán cà phê giữa rừng, tôi nghĩ, có lẽ gần Chudniv. Bao quanh quán là một bức tường cây gỗ, đầu nhọn như bút chì, có chạm khắc những khuôn mặt dài đáng sợ, đeo bông tai lớn, và đội mào lông của người Cossack. Trông rất kém cỏi chẳng ra gì nhưng đó là Ukraine. Đêm lạnh rét, không gian sâu thẳm lấp lánh sao trời.

Tôi nghĩ, trong chuyến đi này, sự mệt mỏi ảnh hưởng đến nhận thức. Không nghỉ ngơi đủ; những thứ đập vào cảm nhận có một chút hư ảo, đồng thời giống như thật. Mọi thứ lờ mờ và con người xuất hiện trong màn sương rồi trở nên khác biệt khi đến gần. Trong im lặng, chia sẻ nỗi đau và niềm vui, hai chúng tôi có thể để dành cả phút để nhìn một giọt nước nhỏ xuống bên ngoài gương cửa. Ngay cả khi đó, cô ta không chịu nổi tâm trạng thất thường, những thứ đó đang xóa bỏ trong tôi.

Có lần, tôi nhớ, những người trên xe buýt la lên, "Starkon, Starkon. Chúng ta đang đi đến Starkon." Có điều gì như một vũ trụ, tương lai, và bí mật trong từ vựng này, Starkon. Rồi, một giờ sau, hóa ra là quận Starkostiantyniv, có lý do nào đó, cô trở nên thất vọng, bĩu môi, và thu mình vào nội tâm. Trong một giờ tiếp theo, mọi thứ dường như rất khủng khiếp. Ở Starkon, hai thanh niên ngồi sau chúng tôi, nồng nặc mùi rượu. Tất cả hành khách chìm vào một phần tối xám đậm trong xe, lắc lư như bao tải trên đường gồ ghề. Không thấy ai cười. Đột nhiên, một trong hai người say rượu sau lưng tôi, bắt đầu kể cho người kia nghe về đứa con trai nhỏ của anh:


 "Tôi nhìn sang, thấy nó ngây thơ và đang khóc. Tôi nói, 'Mở miệng ra, ba xem.' Nó mở miệng. Anh biết không, có chiếc răng nhỏ một bên đang mọc lệch lấn vào hai chỗ. Thật đáng thương.'Tội nghiệp thằng bé'. Tôi hôn nó và ôm chặt vào lòng …" Chuyến xe bất ngờ ướt sũng tình thương và vẻ đẹp. Mọi người ngồi lặng lẽ, lắc lư theo nhịp xe, chìm lắng vào suy nghĩ những vấn đề riêng tư, không còn là những người mẫu bằng nhựa màu xám: trong mỗi con người, sau lớp mặt nạ mệt mỏi, là một vũ trụ bao la đầy sao trời, và cô ấy nghiêng người, thì thầm vào tai tôi, "con người thật xinh đẹp, ngay cả những lúc họ không nhận ra."

Đôi khi, hai đứa tôi đi bộ trong những chuyến du hành cuối tuần, vào những ngày đầu năm, khi còn có cơ hội. Bên ngoài Yuzhnoukrainsk, trên một khu mộ Polovtsian ở thảo nguyên, chúng tôi hái trộm dưa hấu và ăn ngon lành. Ra ngoài Konotop, đi lạc trong những khúc sông Seim quanh co, trồi lên từ lớp bùn cao đến thắt lưng, đến một trang trại, nơi có người phụ nữ và anh chồng đi đánh cá bằng thuyền câu. Họ mời chúng tôi ăn cá rô luộc vẫn còn vảy. Khi trả tiền, người phụ nữ cố gắng từ chối, nhưng tay cô run lên vì đây là số tiền quá lớn đối với cô. Trong khi vẫn còn thời giờ, chúng tôi leo lên một ngọn núi nhìn ra Yalta, từ một cây số trở lên, thấy rõ ràng trái đất hình tròn: biển xanh đậm tách biệt khỏi bầu trời xanh lợt, thành một vòng cung khác thường.

Tôi đã đoán trước, trong những chuyến đi sớm, chúng tôi sẽ thường xuyên làm tình, đặc biệt là ở trên những cánh đồng, những nơi vắng vẻ, hoặc những nơi phong cảnh đẹp như ngọn núi nhìn xuống Yalta. Tuy vậy, cô ta vẫn hay nói, "chúng ta dơ dáy quá."

Một vài lần, trong lúc tâm tư bấn loạn, cô ấy thủ dâm, như trong khách sạn dọc đường xa lộ ở những vùng bùn lầy thuộc Polissia, nơi chúng tôi khiến cho những tài xế lái xe vận tải liên tỉnh giật mình, nhưng tôi nhanh chóng hiểu ra, chuyến đi của chúng tôi không phải hoàn toàn du lịch. Cô ta đang bám víu thời gian nhỏ giọt qua những ngón tay. Đặc biệt, trong những năm cuối cùng, khi cô cần điều trị càng ngày càng nhiều, chúng tôi đi chơi càng ít.

Tôi ghen tị với quá khứ ở Mỹ của cô ấy, về những gì cô học được, không biết đến từ đâu. Hoặc đúng hơn, về sự uyên bác hỗn độn của cô. Ví dụ như, "kiến thức ngẫu nhiên", cô có khả năng này. Chúng tôi đi trên một chiếc xe đen xuyên qua cánh đồng phủ đầy tuyết trắng ở Boondocks, hai đứa tôi thích gọi là "Kamianka-Znamianka", ngạc nhiên trước màu xanh lục của nhựa đường, không biết từ đâu, một phản ứng liên tưởng tinh thần nào đó, cô bật ra, "Kiến thức ngẫu nhiên: Khi ông Voltaire qua đời, gia quyến đã đưa ông lên xe ngựa như thể ông còn sống. Cứ như thế, như còn sống, xác chết đã đi đến một vùng xa xôi ở hướng đông. Anh biết tại sao không? Vì muốn đến trước khi thư gửi đến. Vì giáo hội sẽ không kịp gửi thư cho giám mục ở vùng này để ra lệnh cấm chôn ông trong khu đất thánh."

Tôi ghen tị quá khứ của cô ấy ở Mỹ, quá khứ mà từ đó những cơn kích thích bệnh bùng phát, trong khi, có vẻ như cô ghen tị với tôi những năm cô đã bỏ lỡ cơ hội ở lại Ukraine. Tôi kể cô nghe nhiều câu chuyện. Vào những năm trong thập niên chín mươi, khi còn là một học sinh, tôi đã cùng với cha mẹ đào xới những khu vườn, vào thời đó, chúng tôi tận sức gom góp nhiều mảnh đất nhỏ do chính quyền cung cấp cho những người thân lớn tuổi và những họ hàng đã đi ra ngoại quốc làm việc, để gia đình tôi có thể tìm kiếm đủ thức ăn cho các trẻ em qua suốt mùa đông. Kể sang chuyện điện đã tắt như thế nào giữa mùa giá lạnh. Cả nhà tôi mặc áo len dày vì ngay cả khí đốt cũng không ấm đủ để tụ tập trong bếp. Trước là ngồi quanh những ngọn nến, sau là quây quần xung quanh bình điện xe hơi mà cha tôi đã mua, thắp sáng một bóng đèn tỏa ánh vàng nhạt. Rồi làm thế nào, vào những buổi tối trong bếp, mẹ có thể nướng trong lò ga, những bánh quy dẹp với một ít mức hoặc chiên bánh kếp trên nắp lò mà chúng tôi ăn rất dè xẻn. Dĩ nhiên, lúc đó, tôi không biết, đây sẽ là những kỷ niệm hạnh phúc nhất trong thời thơ ấu.

Tôi kể cô nghe chuyện tôi và người anh đi dự đám tang của ông nội từ Kyiv. Lúc đó, tôi đang sống ở Học viện Bách khoa, gần ga tàu điện, trong khi, anh tôi đang ở nhà trọ ngoại ô khu Vydubychi. Chúng tôi mua vé tàu suốt khởi hành vào nửa đêm đi Radyvyliv, khi tàu điện ngầm chưa chạy, từ nhà ga anh tôi đi bộ đến chỗ của tôi. Hai đứa ngồi trò chuyện, hút thuốc, rồi trở lại nhà ga. Hóa ra chúng tôi đến gần trễ, phải chạy nước rút suốt cây số cuối cùng, túa mồ hôi, thở muốn đứt hơi, nhảy lên con tàu đang di chuyển, bủn rủn trên những bậc thang đang rút lên. Người soát vé nhìn thấy, mắng chúng tôi, "Đồ ngu, hai đứa có thể bị đứt chân biết không!" Tôi muốn cười cho nhẹ bớt nặng nề nhưng cảm thấy cười lúc này không thích hợp.

Rốt ráo, chúng tôi dự đám tang muộn. Khi đến làng Boratyn, cha tôi và các hàng xóm vừa trở về từ nghĩa trang. Họ đang ngồi ở chiếc bàn dưới gốc cây lê già trong sân với chai rượu bình dân, xúc xích hun khói rẻ tiền, và dưa chua tự làm. Họ nài ép chúng tôi uống rượu. Một phút sau, những hàng xóm thay nhau kể lại những gì tốt đẹp họ đã làm cho ông lão đã khuất và những gì người chết đã hứa sẽ để lại cho họ. Con trai ông lão, cha tôi, ngồi im lặng. Sau đó, ông dẫn chúng tôi ra mộ, ông phàn nàn, "Thân xác chưa lạnh mà họ đã phân chia tài sản. Cha không cần những thứ này, nhưng ít nhất là đừng công khai trước mặt mình." Sau khi nghe, tôi nhớ cô nói, những suy nghĩ về Ukraine, sớm muộn gì sẽ dẫn đến những ký ức về đám tang. Tại sao?

"Có lẽ tình thương sẽ chính xác hơn khi nó lẫn lộn với cảm giác mất mát không thể trốn tránh," cô phỏng đoán.

Sau cùng, tôi cũng hiểu được ý cô. Một lần vào năm cuối cùng đời cô, tôi kể chuyện người mẹ của bạn thân nhất của tôi đã chết trong bệnh viện vì bệnh ung thư. Và anh ấy đã phải đút lót cho cô ý tá trưởng hai mươi hryvnia mỗi lần anh muốn cô ta tiêm cho người mẹ một mũi morphin, cho đỡ đau đớn.

Cô ấy cười. "Chắc chắn điều này đại diện cho Ukraine." Và cô bắt đầu khóc.

Đối với hai đứa tôi, sự bùng phát những cuộc nói chuyện "chính thức" về "tình yêu nước dành cho Ukraine", đang nổi lên khắp nơi, các cuộc tuyên bố vênh váo, trống rỗng, nhàm chán, và trên hết, người Nga gọi là posho, nghĩa là lỗi thời và tồi bại. Hoặc, nếu thích tiếng Anh hơn, gọi là vô liêm sỉ.

Diễn giải câu nói của người Mỹ, cô ta lập luận: Lòng yêu nước giống như cái dương vật. Bất kể kích thước, không thể là một ý tưởng tốt, nếu đem ra phất phới ở nơi công cộng. Hát đồng ca và đi theo đội hình. Sharovary, chiếc quần rộng bóng sáng của người Cossack. Cùng một ngày, mọi người đồng loạt đeo đồ thêu truyền thống trên áo, thậm chí, dán lên xe hơi. Vẫy cờ cột trên những cây gậy, hoặc hơn nữa, nếu có thể được, dương cao những lá cờ lớn nhất. Đeo dấu hiệu chiếc đinh ba Ukraine trên ngực. Tất cả chỉ phô trương, khoe khoang. Việc này có thẩm mỹ tương đương với việc dựng tấm biển quảng cáo bên đường với hình ảnh người yêu đang cầm bó hoa đã được sửa bởi photoshop, với lời nhắn: "Natalka! tôi yêu em! Tolia." Trong trường hợp yêu nước này, hành động thực hiện một cách tập thể, đổi lại ví dụ như sau: "Natalka! Hãy nhìn xem, em đã khơi dậy lòng yêu nước của chúng tôi." Đây là chủ nghĩa phô diễn. Tình cảm chân thành không cần loa phóng thanh. Tình yêu lặng lẽ, hầu như không nghe thấy. Đó là dấu phẩy, trong lời lập lại: "Tôi yêu cô ấy, tôi rất yêu Ukraine nghèo của tôi." Hôm nay, tôi gần như bật lên tiếng thổn thức khi nghe dòng chữ này. Taras Hryhorovych Shevchenko. Bất kể đau đớn, một chút điên cuồng, dịu dàng, sâu sắc, với nỗi sợ mất mát. Trong tình yêu, điều bắt buộc là sự chấp nhận.

Một trong vài lần đi cuối cùng, vào giữa mùa đông, chúng tôi trên chiếc xe buýt về vùng nông thôn bị hư giữa đường, bên ngoài Dunaivtsi. Từng chút một, xe bắt đầu đông đá. Bên ngoài, cơn gió lạnh xuyên qua da thịt vào tận xương tủy. Tài xế loay hoay sửa động cơ. Chiếc xe đã quá cũ, đương nhiên thường bị hư. Hành khách bắt đầu cằn nhằn, "Ở đây chúng ta thường nghe câu hỏi, có phải chúng ta là một quốc gia thuộc Châu Âu?" Tôi cũng trở nên bực bội, nhưng cô ấy mỉm cười, sưởi ấm hai bàn tay đang kẹp trong nách. Rồi nói, "Em chưa bao giờ nghe nói một người nào chết cóng ở Ukraine vì xe hư dọc đường. Không sao đâu. Dĩ nhiên là khó chịu. Nhưng việc đã xảy ra rồi."

Tôi học được từ cô ấy, sự chấp nhận. Khi mẹ cô gọi điện thoại mời tôi đến dự đám tang, tôi buồn khổ, nhưng không ngạc nhiên. Cô không trực tiếp nói với tôi điều gì, nhưng bây giờ, nhìn lại, tôi hiểu cô đã sống một cuộc sống ngắn ngủi. Như cô ta đã lượm lặt được sự hài lòng từ bệnh trầm cảm và từ tình yêu buồn rầu bất chấp đớn đau, tôi tin chắc, cô cũng đã đạt được một cảm khoái nào đó trong việc. Chỉ mong rằng, những khốn khổ thân xác sẽ ít hơn những dày vò tâm thần mà cô phải chịu đựng.

Nhưng bây giờ nàng đã chết
Chết mãi mãi
Bây giờ, chết và đáng yêu

Tôi không nhận ra khi bước chân lên rìa gò đất mềm, mới đào. Mẹ cô nhìn tôi dò xét khó chịu. Môi mím lại thành một sợi đỏ đậm màu son môi. Khuôn mặt mỏng được trang điểm đúng kiểu cách. Một thân hình đẹp so với tuổi tác. Nếu sống lâu, cô sẽ giống mẹ cô. Bà mặc bộ đồ đứng đắn màu nhạt, áo khoác trắng và giày cao gót đen: đó là lý do bà đứng trên mặt lề bê tông, không đến gần gò đất. Mang một chiếc khăn che đầu, nghĩ cho cùng, đây là nghĩa trang. Có lẽ, bà cho rằng tôi không tỏ lộ đầy đủ nỗi đau buồn. Tất cả những năm qua, bà vẫn nghĩ, tôi mang ảnh hưởng xấu đến cho con bà. Đã lôi kéo cô ấy "ai biết ở đâu hoặc muốn gì". Đã từ chối không lập gia đình chính thức, hoặc ít nhất, sống chung với nhau một thời gian. Tôi tò mò, liệu người mẹ có hiểu nỗi đau mà con gái bà phải trải qua không? Một ngày nào, tôi sẽ kể cho bà biết. Hoặc có thể, không bao giờ. Mẹ cô rất sùng đạo Chính Thống và che giấu sự thật để thân xác đứa con gái được chôn cất theo các nghi lễ vào khu đất thánh.

Tôi đã học được sự chấp nhận từ cô ấy. Đất sét từ ngôi mộ dính vào giày tôi, làm nhớ lại buổi đi dạo quanh nghĩa trang Krasnoilsk vào mùa xuân trước. Hoa giả trang trí gần như tất cả các thánh giá. Những hàng chữ viết lẫn lộn bằng tiếng Lỗ Ma Ni, Nga và Ukraine, đất sét vàng dính vào chân chúng tôi cũng theo cách như vậy.

Mẹ cô và tôi nghe tiếng chửi rủa lầm bầm sau lưng. Rõ ràng, hai phu lấp mộ đang tranh cãi về số tiền bà đã đưa cho một người trong hai người. Nếu tôi nhớ không lầm, họ hơi say. Mẹ cô liếc nhìn những phu mộ, đôi môi mím lại, sau đó, bà quay đi, thắt chặt khăn quàng cổ mà bà sẽ cởi ra khi rời nghĩa trang. Bà thì thầm, "Thật là những người kinh khủng!"

Những phu lấp mộ ra dấu bằng cử chỉ xin tôi tha thứ. Họ im lặng đi ngang qua chúng tôi, vác xẻng trên vai. Khi họ nghĩ, tôi không còn theo dõi, một người đấm vào vai người kia, rồi gằn giọng: "Đồ ngốc". Vâng, họ có uống một chút. Có mùi rượu. Họ trông bẩn thỉu trong áo khoác rách màu xám. Họ không phải người Âu châu, thiếu văn minh. Không có gì để nói. Bên trong mỗi người đều có một vũ trụ khổng lồ đầy sao trời. Do đó, vẻ bên ngoài không hấp dẫn, lao động tẻ nhạt, vui chơi thiếu suy nghĩ, tranh giành tiền bạc, thường khiến người khác không nhìn thấy bên trong. Đôi khi, người ta quên sự hiện diện của nội tâm. Đôi khi, chúng tôi cũng vậy. Tôi quay sang nói với mẹ cô: "Bà có biết con gái bà thường nói gì không? Mọi người đều xinh đẹp, ngay cả khi họ không nhận ra."
 
Artem Chapeye
Bản dịch Anh Ngữ: Zenia Tompkins.
Bản dịch Việt Ngữ: Ngu Yên

Ý kiến bạn đọc
29/10/202202:20:27
Khách
Hoan Nghênh !
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.