Hôm nay,  

Sau 27 năm bang giao Mỹ-Việt, Hà Nội vẫn theo Nga và Trung Quốc

1/3/202317:29:00(View: 6137)

Chính luận

Conference_FulbrightVietnam_27thAnniversaryUSVNRelatìon_2022_08

Hội nghị ghi dấu 27 năm quan hệ Việt-Mỹ do Đại học Fulbright Vietnam tổ chức vào tháng 8/2022 (Screenshot – Fulbright University Vietnam).



Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1995, hai mươi năm sau khi cuộc chiến chấm dứt, khép lại một trang sử thù nghịch kéo dài nhiều thập niên trên chiến trường và chính trường ngoại giao. Cơ hội để Việt Nam và Hoa Kỳ nối lại quan hệ đã có không lâu sau khi cuộc chiến kết thúc, nhưng Hà Nội để mất cơ hội bắt tay với Washington vào những năm cuối thập niên 1970.

 

Sau chiến tranh, Mỹ muốn thừa nhận một nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của Hà Nội, vì thế khi hai quốc gia là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Miền Bắc) và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (hậu thân của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam hay còn gọi là Mặt trận Giải phóng Miền Nam, thay thế Việt Nam Cộng hoà sau ngày 30/4/1975) cùng xin gia nhập Liên Hiệp Quốc vào cuối năm 1975, Hoa Kỳ đã phủ quyết việc này, còn Trung Quốc, Liên Xô và Anh, Pháp đều ủng hộ. Đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc Hoàng Hoa (Huang Hua) lúc đó đã ca ngợi cuộc chiến đấu lâu dài của nhân dân Việt Nam là “biểu tượng sáng ngời của chính nghĩa cách mạng chống đế quốc” trên toàn thế giới và ông nhấn mạnh hai dân tộc Trung, Việt đã là “đồng chí chiến đấu bên nhau.” (The New York Times 12/8/1975).

 

Năm 1976, Việt Nam chính thức thống nhất, Hoa Kỳ không còn phủ quyết đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc và nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trở thành hội viên năm 1977. Cùng năm đó Tổng thống Jimmy Carter gửi đặc sứ Leonard Woodcock đến Hà Nội để bàn về vấn đề hơn hai nghìn tù binh và lính Mỹ còn mất tích (POW-MIA) và tương lai quan hệ hai nước. Khi đó ông Woodcock là trưởng văn phòng liên lạc của Hoa Kỳ tại Bắc Kinh, là cơ sở ngoại giao không chính thức của Mỹ được thiết lập sau chuyến đi lịch sử đến Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon năm 1972. Tháng 6 năm 1977 cũng đã có những cuộc gặp tại Paris giữa thứ trưởng ngoại giao Mỹ Richard Holbrooke và thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Phan Hiền. Phía Mỹ đề nghị hai nước nối lại bang giao trước, rồi tiếp tục thảo luận về quyền lợi hai bên gồm vấn đề MIA-POW và tái thiết miền Bắc. Hà Nội không đồng ý mở ra quan hệ ngoại giao mà nhất quyết đòi Mỹ trước hết phải viện trợ 3.5 tỉ đôla tái thiết, viện trợ thực phẩm và hàng hoá như Tổng thống Richard Nixon đã hứa trong thư riêng gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau khi ký Hiệp định Paris 1973.

 

Chính sách đối ngoại của Hà Nội khi đó là theo Liên Xô chống lại Hoa Kỳ và Trung Quốc. Tháng 6 năm 1978 Việt Nam gia nhập khối hỗ tương kinh tế Comecon gồm các quốc gia cộng sản Đông Âu do Liên Xô đỡ đầu. Đến tháng 11, Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng qua Moskova gặp Tổng Bí thư Leonid Brezhnev và ký Hiệp ước Thân hữu với Liên Xô.

 

Những sự kiện trên khiến Washington thay đổi chính sách với Hà Nội, vì sau khi bốn bên ký Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ đã muốn giúp cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam cùng phát triển, qua thư riêng của Tổng thống Nixon gửi cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng với lời hứa viện trợ 3.5 tỉ đôla, cũng như thư riêng gửi cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, những nhà làm chính sách Mỹ cũng hy vọng rằng Việt Nam sẽ như cộng sản Nam Tư trong đối ngoại, không nghiêng về Liên Xô hay Trung Quốc, vì thế Hoa Kỳ đã đề nghị thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1977 và sẽ giúp Việt Nam phát triển kinh tế để dần đưa đến thay đổi, như Hoa Kỳ khi đó đang có chính sách giao thương với Trung Quốc từ khi mở ra quan hệ thương mại giữa hai nước.

 

Nhưng Tổng Bí thư Lê Duẩn đã không muốn có quan hệ ngoại giao với Mỹ và Hà Nội đã đứng hẳn về phía Liên Xô. Cuối năm 1978 bộ đội Việt Nam tiến vào Cambodia lật đổ chế độ Khmer đỏ của Pol Pot được Trung Quốc yểm trợ để dựng lên chính quyền Hun Sen thân Việt Nam.

 

Với cuộc xâm lăng Cambodia, Washington không còn ý định theo đuổi việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Hà Nội mà quyết định bang giao với Trung Quốc vào đầu năm 1979. Bắt tay được với Mỹ, Trung Quốc cắt đứt quan hệ và “dạy cho Việt Nam một bài học” bằng các cuộc tấn công quân sự vào các tỉnh biên giới phía bắc. Còn Washington ủng hộ Bắc Kinh bằng cách xiết chặt cấm vận đối với Việt Nam.

 

Sau mười năm chiếm đóng, đầu thập niên 1990 Việt Nam rút hết bộ đội về và đồng ý với giải pháp hoà bình cho Cambodia của Liên Hiệp Quốc.

 

Trước biến cố sinh viên Trung Quốc đòi dân chủ và bị đàn áp khiến hàng nghìn người thiệt mạng ở Thiên An Môn vào hè 1989 và cuộc “Cách mạng Nhung” kéo theo sự sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Đông Âu, cùng sự tan rã của Liên Bang Sô Viết, Hà Nội và Bắc Kinh đã bỏ qua thù nghịch cũ và xích lại với nhau, cam kết bảo vệ thành trì còn lại của cộng sản trên thế giới.

 

Những năm đầu thập niên 1990 làn gió cải cách chính trị cũng đã thổi qua Việt Nam, với những tiếng nói của giáo sư Phan Đình Diệu, cựu Tướng Trần Độ, Uỷ viên Bộ Chính trị Trần Xuân Bách hay của nhóm Diễn đàn Tự do của giáo sư Đoàn Viết Hoạt, Cao trào Nhân bản của bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Nhóm Đà Lạt của tiến sĩ Hà Sĩ Phu cũng như các tiếng nói của luật sư Đoàn Thanh Liêm, giáo sư Nguyễn Văn Huy. Nhưng tất cả đã bị Hà Nội tìm cách dập tắt bằng cách khai trừ khỏi đảng hoặc áp đặt những bản án tù nhiều năm với tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” hay “tuyên truyền chống lại xã hội chủ nghĩa” cho những người đòi cải cách chính trị để có tự do dân chủ cho đất nước.

 

Tổng thống Richard Nixon đi Bắc Kinh năm 1972 với chính sách giúp Trung Quốc phát triển kinh tế, từ đó sẽ đưa đến các cải cách chính trị. Năm 1992 Hoa Kỳ có cùng viễn kiến ngoại giao đối với Việt Nam nên đã dần nới lỏng cấm vận và đến năm 1995 Washington và Hà Nội chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Sự kiện này cũng cho thấy Hà Nội không thể đi trước Bắc Kinh trong việc nối lại quan hệ với Hoa Kỳ, vì sau khi đồng ý giải pháp hoà bình cho Cambodia, lãnh đạo của Hà Nội và Bắc Kinh đã ký một văn bản hợp tác hỗ tương gọi là “Mật ước Thành Đô” vào năm 1990, qua năm 1991 thì Việt Nam và Trung Quốc nối lại bang giao, bốn năm trước khi Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ.

 

Sau 27 năm có bang giao hai nước, giao thương Mỹ-Việt đã lên đến hàng trăm tỉ đôla mỗi năm và trao đổi, hợp tác về giáo dục, an ninh, quốc phòng, y tế, môi sinh ngày càng phát triển. Nhiều cán bộ, tướng tá cộng sản và con cháu cũng đã chọn Mỹ làm quê hương thứ hai.

 

Nhưng về đối ngoại chính trị, Việt Nam ngày nay vẫn đang theo đuổi các chính sách nghiêng về Trung Quốc và Nga. Tuy giới lãnh đạo Hà Nội luôn nhấn mạnh đến việc không liên minh với nước này để chống lại nước khác, gọi là “ngoại giao cây tre”, “ngoại giao đu dây”; nhưng trên thực tế Hà Nội vẫn e dè với Mỹ và vẫn đang đứng về phía Nga và Trung Quốc. Qua các lần bỏ phiếu tại Liên Hiệp Quốc liên quan đến cuộc chiến ở Ukraine cho thấy lãnh đạo Việt Nam không ủng hộ Mỹ và đã đi ngược lại với thế giới trong việc lên án Nga xâm lược.

 

Trong hai năm qua đã nhiều lần Washington đề nghị nâng cấp bang giao từ “quan hệ đối tác toàn diện” lên “quan hệ đối tác chiến lược” nhưng Hà Nội vẫn chần chừ.

 

Sau khi Tập Cận Bình được chọn làm lãnh đạo Trung Quốc thêm một nhiệm kỳ thứ ba, cuối tháng 10 vừa qua Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là lãnh đạo nước ngoài đầu tiên đến Bắc Kinh gặp gỡ Chủ tịch Tập. Bản thông cáo chung đưa ra sau chuyến thăm cho thấy Hà Nội ủng hộ các chính sách an ninh và phát triển toàn cầu của Bắc Kinh, từ Sáng kiến Vòng đai và Con đường (BRI, Belt and Road Initiative), Sáng kiến Kết hợp Toàn cầu (GNI, Global Network Initiative) và Sáng kiến Phát triển Toàn cầu (GDI, Global Development Initiative) là những chương trình đối ngoại kinh tế và an ninh của Trung Quốc mà Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược.

 

Hà Nội hiện nay không muốn – hay không thể do áp lực từ Bắc Kinh – đưa ra những chính sách đối ngoại thân thiết hơn với Mỹ dù Mỹ từ thời Tổng thống Barack Obama đã nhận ra một Trung Quốc mạnh về kinh tế đang mở rộng quyền kiểm soát an ninh toàn cầu nên có chủ trương xoay trục về Đông Á để bảo đảm an ninh khu vực. Khi Tổng thống Donald Trump làm lãnh đạo, Hoa Kỳ đã tuyên chiến thương mại với Trung Quốc dẫn đến quan hệ Mỹ-Trung như đóng băng từ 6 năm qua.

 

Đã có những khảo sát ý kiến cho thấy dân Việt có nhiều cảm tình với Hoa Kỳ hơn là với Trung Quốc. Hà Nội sẽ có những chính sách phù hợp với lòng dân, hay vẫn theo ý đảng, chọn Trung Quốc dựa trên “4 tốt” là: “láng giềng tốt, bạn bé tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” và với phương châm “16 chữ vàng” là “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” mà hai Đảng Cộng sản đã đồng thuận với nhau?

 

Tháng 5 vừa qua Thủ tướng Phạm Minh Chính có chuyến đi Mỹ, trong khi chờ gặp ngoại trưởng Antony Blinken, các thành viên của đoàn, gồm cả tướng Tô Lâm đã tán chuyện với nhau. Ông Chính bênh vực cho quan điểm ủng hộ Nga xâm lăng Ukraine của Việt Nam với câu nói: “Rõ ràng, sòng phẳng. M.. n.., sợ gì”. Đoạn phim này đã được đưa lên trang mạng của bộ ngoại giao Hoa Kỳ, trước khi được gỡ xuống.

 

Hà Nội muốn Tổng thống Joe Biden đến thăm Việt Nam. Nhưng đó là hy vọng xa vời vì sau những lần chuyển lời mời và nhiều vận động ngoại giao, một cuộc điện đàm giữa Tổng thống Joe Biden và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn chưa diễn ra. Với tình hình quan hệ hiện nay, lãnh đạo Mỹ có lẽ không sang thăm Việt Nam cho đến sau bầu cử 2024.

 

Quan hệ Mỹ-Việt đang chậm lại. Nhiều công ti Mỹ đã, đang rời Trung Quốc và tìm kiếm các quốc gia khác để thiết lập công xưởng. Với chính sách ngoại giao theo Trung Quốc và Nga như đã được Hà Nội thể hiện, liệu Việt Nam có phải là lựa chọn bền vững cho các công ti Hoa Kỳ?

 

Chọn theo Nga và Trung Quốc, Hà Nội đang đánh mất những cơ hội đưa phát triển kinh tế của Việt Nam lên tầm cao để mau tiến bộ bằng Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan.

 

Bùi Văn Phú

 

 

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.