Hôm nay,  

50 năm trước TT Thiệu phản đối bản án khai tử VNCH, nên Mỹ ra tối hậu thư...

1/23/202314:12:00(View: 6169)
Tìm hiểu lịch sử

daovan

50 năm trước, vào ngày 27.1.1973 phía  chính phủ VNCH bị buộc phải ký kết   vào cái gọi hòa  đàm  Paris  để rồi báo chí  Sài gòn  thời đó đã  ví von gọi đó là "hiệp định da beo"...  Theo tài liệu  của Bộ Ngoại  Giao vào cuối tháng 10.1972,  TS Kissinger hô hoán lên rằng hòa đàm Ba-lê đã đạt được  cả  3 điểm, nhưng tổng thống Thiệu thì nói KHÔNG với cả 3.  Sự thể  cuộc đối đầu giữa  tổng thống Thiệu và tổng thống Nixon hồi tháng 10 năm 1972 như thế nào, phần tóm lược sau người viết dựa vào   tài liệu của CIA và tài liệu phổ biến trên  thư viện online của Bộ Ngoại Giao (Foreign Relations of the United States/ FRUS).

• Ngày 09.10.1972 - theo bản văn của CIA - Sự hiện diện của Tướng Haig với Kissinger  tại Paris dẫn đến  suy đoán rằng các cuộc thảo luận sẽ tập trung vào tương lai của tổng thống Thiệu. Theo  tờ Times of London vào ngày thứ Sáu rằng Hoa Kỳ và Bắc Việt Nam đã đồng ý về một kế hoạch theo đó Thiệu sẽ từ chức để nhường chỗ cho một chính phủ liên hiệp. Không có bình luận nào về kết quả cuộc hội đàm của Kissinger với các nhà đàm phán Bắc Việt ngày hôm qua. « Thư viện CIA 10.9.1972: Memorandum for Mr. Kissinger pdf »


✱ Các thỏa thuận giữa Mỹ và CSVN  (10/1972)


- Ngày 11-12.10.1972 - 
Tóm lược theo bản văn của Bộ Ngoại Giao về cuộc họp hai bên  giữa TS Kissinger và phía CSBV là Lê Đức Thọ, họp tại Paris  từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 10 năm 1972 « tài liệu tham chiếu số FRUS #1 - FRUS #3 - FRUS #5 - FRUS #6  - NGUỒN  tài liệu tham chiếu phía dưới » . Phía CSBV không muốn kéo dài cuộc thảo luận và yêu cầu hiệp định phải được ký kết vào cuối tháng 10.1972 -  Trong khi đó  vào ngày 7.11.1972 có cuộc bầu cử  tổng thống tại Mỹ  và TT Nixon tái ứng cử - không biết đó có phải là lý do phía CSBV mượn cơ hội này ép phía Mỹ phải chiều theo ý của CSBV hay không. 

 Ngày 12 tháng 10.1972, hai bên đã đồng ý về bản dự thảo...

" - Lê Đức Thọ: Bây giờ về phần thỏa thuận chúng tôi đã đồng ý, chúng ta sẽ tiến hành như thế nào?

  - Kissinger: ... Tôi muốn nói, để tránh nhầm lẫn, chúng tôi sẽ đánh máy  lại từ tiếng Anh của chúng tôi và ông có một bản sao của bản văn. Chúng tôi sẽ nỗ lực tận tâm nhất để đảm bảo rằng mọi thứ chúng ta đã đồng ý đều được hợp nhất.

  - Lê Đức Thọ : Có thể nói các cuộc đàm phán này là cuộc đàm phán dài nhất giữa các quốc gia trên thế giới. Nhưng chúng ta đã rất nỗ lực, và bạn cũng vậy, ông  đã rất nỗ lực ... Nhưng thông qua nỗ lực của chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được mục tiêu hòa bình-But through our effort, no doubt we will reach our objective of peace." {FRUS #6}

     Sau đó phía Mỹ đã tiết lộ  lịch trình  của TS Kissinger phải đến Sài Gòn gặp phía VNCH để trao đổi   với  TT Thiệu về nội dung bản dự thảo mà hai bên Mỹ-CSVN đã thỏa thuận,  và phía Mỹ chiều theo ý của CSBV là sẽ công bố và ký kết hiệp định theo lịch trình  phía Mỹ chia sẻ với phía CSVN, mặc dầu chưa có  ý kiến từ phía VNCH.

" Kissinger: Bây giờ tôi có hai phương án  khác nhau. Nếu tôi không trở lại đây, thì sáng thứ Hai tôi sẽ rời Washington để  đến Sài Gòn vào tối ngày 17. Sau đó, tôi phải mất ba ngày ở Sài Gòn, ở đó vào các ngày 18, 19 và 20, sau đó tôi sẽ ra Hà Nội vào sáng ngày 21, và rời đi vào sáng ngày 23. Chúng tôi sẽ công bố thỏa thuận vào sáng ngày 26, giờ của  ông (giờ Hà Nội) . Và chúng tôi sẽ ký hiệp định  vào ngày 29 hoặc 30 tùy thuộc vào lịch trình. Có thể là ngày 30, bởi vì ngày 29 là Chủ nhật. Vì vậy, chúng ta hãy nói rằng ngày 30 sẽ là ngày ký kết . Thông báo sẽ được công bố vào ngày 26.- So let us say the 30th would be the signature. The announcement would be on the 26th.

Phương án  còn lại là chúng ta gặp nhau ở đây vào ngày 16 hoặc  ngày 17. Tôi thực sự không thể rời Washington trước ngày 16. Sau đó tôi sẽ đi từ đây đến  Sài Gòn. Như vậy  tôi sẽ đến Sài Gòn vào tối ngày 18, sau đó tôi sẽ có mặt ở Sài Gòn vào ngày 19, 20 và 21. Tại Hà Nội ngày 22 và 23. Tôi sẽ trở lại Mỹ vào ngày 24. Thông báo  sẽ là sáng ngày 27, giờ của ông. Mọi thứ diễn ra một ngày sau theo cách đó. Thông báo sẽ là sáng ngày 27, giờ của ông  và việc ký kết vẫn có thể vào ngày 30 hoặc 31 -Announcement would be the morning of the 27th, your time and the signing could still be on the 30th or 31st." {FRUS #6}

 Ngày 12.10.1972 -Lúc 7 giờ 5 phút tối hôm đó, ngày 12 tháng 10, Kissinger và Tướng Alexander M. Haig, Phó Phụ Tá  của Tổng thống về các vấn đề an ninh quốc gia, bước vào văn phòng của Tổng thống trong Tòa nhà Văn phòng Điều hành . Sau đó Kissinger bắt đầu báo cáo "..."

- Kissinger: “Chà, ông đã đạt 3 trên 3, thưa Tổng thống. Nó đang hướng tới đích. "

- Nixon: “Ông đã đạt được thỏa hiệp? Ông đang giỡn hả? " (“You got an agreement? Are you kidding?”)

- Kissinger: "Không, tôi không nói đùa."

- Nixon: “Ông  có hài lòng về nó không? đạt được  3 trên 3? "

- Kissinger: "Mặc dù đã xong nhưng chúng ta phải ..." {FRUS #9}

 ✱ Tổng Thống Thiệu nói KHÔNG và bác bỏ thỏa biệp

Trong phiên họp tổ chức  tại Dinh Độc Lập ngày 19.10.1972, Tổng Thống Thiệu nói KHÔNG nếu các điều khoản trong hiệp định  thiếu 3 điều: 1- đảm bảo tuyệt đối về vùng phi quân sự (DMZ), 2- phải  rút toàn bộ lực lượng của Bắc Việt Nam,  và 3- chấp  nhận quyền tự quyết toàn bộ của miền Nam Việt Nam. Thành phần tham dự phiên họp này gồm có:

* Phía VNCH:  President Nguyen Van Thieu -Vice President Tran Van Huong-Prime Minister Tran Thien Khiem- Foreign Minister Tran Van Lam- Ambassador Tran Kim Phuong-   Ambassador Pham Dang Lam- Presidential Adviser Nguyen Phu Duc- Presidential Secretary Hoang Duc Nha.

* Phía Mỹ - Dr. Henry A. Kissinger-Ambassador Ellsworth Bunker -  General Creighton Abrams- Ambassador William H. Sullivan- Ambassador Charles S. Whitehouse- Winston Lord, NSC Staff-  David Engel, NSC Staff.

  Ngày 19.10.1972: Tại Dinh Độc Lập trong cuộc ngày 19.10.1972 Tổng thống Thiệu hỏi TS Kissinger: "..."

"- Tổng thống Thiệu: Tôi muốn hỏi Tiến sĩ Kissinger, theo đánh giá của cá nhân ông với tư cách là một chính khách dày dạn kinh nghiệm, ông nghĩ Bắc Việt Nam mong đợi được gì khi ký kết thỏa hiệp,  họ luôn hy vọng đạt được điều gì đó khi ký kết hiệp định  trong thời gian ngắn. Đây là câu hỏi tôi muốn yêu cầu các ông hãy  suy nghĩ lại và đặt mình vào vị trí của những người Cộng."

- Tổng thống Thiệu: Ông có nghĩ rằng Cộng sản có thể kiếm cớ để công bố hiệp định này nếu họ muốn giành lợi thế trên chính trường không?

- Tổng Thống Thiệu:  Tôi muốn hỏi một câu hỏi rất thẳng thắn liệu ông có thể trả lời tại đây hoặc trong riêng tư. ... Nếu chúng tôi không thể ký thỏa hiệp  này trước cuộc bầu cử, thời liệu Hoa Kỳ có cần phải công bố cho người dân biết rằng họ vẫn có ý định ký kết thỏa hiệp này không? "  "..." [1]

  Ngày 20.10.1972- Cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống Nixon, với Tướng Westmoreland và Tướng Haig, lúc 10:00 sáng, ngày 20 tháng 10 năm 1972 (Phòng Bầu Dục).

"Tướng Westmoreland nói rằng theo quan điểm của ông, khó khăn lớn đối với việc thương thảo  là vấn đề ngừng bắn tại chỗ và sự thiếu sót không có bất kỳ điều khoản nào  đề cập  đến các cam kết cụ thể đối với các sư đoàn Bắc Việt  hiện đang chiếm đóng  ở miền Nam. Ông chỉ ra rằng trong khuôn khổ của cuộc  ngừng bắn mà không có sự cam kết về việc rút quân, điều này trên thực tế sẽ dẫn đến việc chấm dứt  chủ quyền của Thiệu đối với các phần quan trọng của lãnh thổ Nam Việt Nam.

    Tướng Westmoreland nói rằng theo quan điểm của ông, Tổng thống Thiệu không thể chấp nhận một thỏa hiệp như vậy và có thể sẽ bác bỏ nó. Một trong những vấn đề lớn đối với Thiệu là  phải giữ được hình ảnh của  ngýời làm chủ số phận của mình. Tướng Westmoreland có lẽ quen thuộc với tính cách riêng của Thiệu hơn bất kỳ người Mỹ nào khác. Thiệu là một kẻ vô cùng đa nghi, mưu mô xảo quyệt, có khả năng nhạy bén và có tài mưu lược đã giúp ông ta có thể tồn tại qua bao nhiêu năm khó khăn-Thieu was an extremely suspicious man who was devious, capable of sharp turns, and had a conspiratorial outlook that had enabled him to survive through many difficult years. Điều cần thiết là Hoa Kỳ phải kiên nhẫn làm việc với Thiệu, và nhận ra  cái khó khăn mà việc từ bỏ lãnh thổ của ông ta sẽ gây ra. Hơn nữa, cơ chế kiểm soát quốc tế trong thỏa hiệp  dường như không có cơ sở, và không có các điều khoản cụ thể để đảm bảo rằng các vi phạm sẽ không xảy ra." {FRUS #33}

 Ngày 22.10.1972 - Theo bản văn trên thư viện online của Bộ Ngoại Giao, TS Kissinger dặn dò tướng Haig: - "Thiệu vừa bác bỏ toàn bộ kế hoạch hoặc bất kỳ sửa đổi nào của nó và từ chối thảo luận thêm về bất kỳ cuộc đàm phán nào trên cơ sở đó. Ông ta khẳng định rằng bất kỳ thỏa thuận nào phải có sự đảm bảo tuyệt đối về vùng phi quân sự (DMZ), phải  rút toàn bộ lực lượng của Bắc Việt Nam và về quyền tự quyết toàn bộ của miền Nam Việt Nam. Tôi không cần phải nói cho ông  biết chúng ta hiện đang đối mặt với cuộc khủng hoảng . Trước khi ông nói chuyện với Tổng thống, vui lòng ghi lại đánh giá nhanh của riêng ông. Trong thời gian chờ đợi, tôi sẽ có đánh giá của riêng tôi." {FRUS #41} [Nguồn từ FRUS #33  đến  FRUS #41].[2]

✱ TS Kissinger, Đại sứ  Bunker tìm cách đối phó với TT Thiệu

 TS Kissinger  muốn  nhanh chóng đạt được thỏa thuận, nên đã dặn dò  đại sứ Bunker tìm cách đối thoại với Tổng Thống Thiệu. Sau đây  tóm lược các yếu tố  nhắc nhở  đại sứ Bunker , để ông ta " nắm vấn đề" hầu liệu lời đối phó với TT Thiệu.

 Ngày 24-10.1972 - (Kissinger to Bunker): ..."Thiệu phải hiểu rằng các lựa chọn thay thế của ông ta thực sự xoay quanh việc chấp nhận những gì tốt đẹp trong lời đề nghị hoặc kiên trì giữ một vị trí không khéo léo, điều này chắc chắn sẽ dẫn đến việc cắt giảm ngân sách  của Hoa Kỳ thông qua hành động của Quốc hội, chứ  không phải từ phía chúng tôi. Do đó, anh ấy bắt buộc không được tự đào hố chôn mình bằng cách miêu tả các hoạt động của tuần này như một cuộc đối đầu lớn hơn là một vòng tham vấn và thảo luận thiết yếu giữa chúng ta. ...Thiệu không nên ảo tưởng rằng ông có thể mong đợi một sự thay đổi cơ bản trong hiệp định như đã được soạn thảo hiện nay....Những nỗ lực của Thiệu để phát triển các đề xuất hòa bình thay thế chỉ có thể dẫn đến hậu quả là buộc hai chúng ta phải đối đầu. Chúng tôi sẽ không chấp nhận những đề xuất như vậy trong mọi trường hợp. {Kissinger to Bunker: 24.10.1972}.[3]



• Ngày 25.10.1972 - (Kissinger to Bunker): Tổng thống muốn các ông  tiếp tục làm việc với Thiệu một cách bền bỉ, có thể gặp lại ông ta thường xuyên hơn...Nếu các cuộc đàm phán đổ vỡ vì sự cố chấp của Thiệu, sẽ hoàn toàn không còn hy vọng tiếp tục nhận ðýợc hỗ trợ quân sự hoặc kinh tế  của Hoa Kỳ cho miền Nam Việt Nam.  Cuối cùng, Thiệu phải hiểu rằng chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để Hà Nội chấp nhận càng nhiều càng tốt những sửa đổi mà ông Thiệu đã đề xuất.  Do đó, trong các cuộc thảo luận với Thiệu, bạn nên gây ấn tượng với ông ta về nhu cầu cấp thiết phải lập kế hoạch kỹ lưỡng cho trường hợp ngừng bắn trong tương lai rất gần và có lẽ sớm nhất là vào giữa tháng 11.

Tôi tin rằng chiến thuật tốt nhất của chúng ta trong việc đối phó với Thiệu là ông phải gặp ông ta  liên tục từ nay đến ngày 8 tháng 11 (to meet with him repeatedly between now and November 8 ) để cuộc gặp tiếp theo của tôi với ông ta có thể là lần cuối cùng. Ông ta  phải hiểu về sự tham gia vào các cuộc họp với chúng tôi với tư cách là đối tác trong việc chấp nhận đề xuất hiện tại được sửa đổi ở mức độ có thể thực hiện được, hoặc chúng tôi sẽ tiến hành mà không có ông ta. Tại cuộc họp của tôi với ông ấy, nếu cần, chúng tôi có thể dứt khoát thông báo cho Thiệu biết rằng chúng tôi sẽ tiến hành mà không có ông ta (we can unequivocally inform Thieu that we will proceed without him- với tất cả những hậu quả đau buồn mà việc này gây ra cho ông ông ta).{ Kissinger to Bunker} [4].

•  Ngày 26.10.1972 - (Bunker to Kissinger)..."Tôi đã yêu cầu ông ta  giữ kín bất kỳ cuộc  thảo  luận công khai nào  cho đến khi chúng tôi  có sự đồng thuận với ông ta và ông ta đã đồng ý làm như vậy - I asked him to hold up on any public comment until we have had an opportunity to concert with him and he agreed to do so". {Bunker to Kissinger}.[5]


✱ Tổng thống Thiệu KHÔNG "giữ kín", nhưng KHÔNG vi phạm lời hứa với Đại sứ Bunker ...

Theo điện văn của Đại sứ Bunker báo cáo về Hoa Thịnh Đốn nêu trên rằng: "Tôi đã yêu cầu ông  ta giữ kín bất kỳ cuộc thảo  luận công khai nào...và ông ta đã đồng ý làm như vậy".  Bản văn này được gửi đi từ Sài gòn vào hồi  6:20  chiều ngày 26.10.1972  (Bản văn  ghi: "Saigon, October 26, 1972, 1120Z." - giờ zulu time zone, hay là 18:20pm giờ Sài Gòn) có thể hiểu là TT Thiệu " phải tiếp" Đại sứ Bunker vào buổi chiều. Còn buổi sáng ngày 26.10.1972 thì...


• Tuần hành chống hiệp định da-beo


Vào  buổi sáng ngày 26.10.1972 một đoàn tuần hành gồm các nghị sĩ, các dân biểu và 14 nghị viên trong Ban Đại Diện nghị viên HĐ Đô Tỉnh Thị toàn quốc  tuần hành đến Dinh Độc lập để hậu thuẫn cho lập trường của phía VNCH. Trước khi đến Dinh Độc Lập, tất cả  ba phái đoàn tập trung tại tiền đình trụ sở Hạ Viện, để  sau đó cùng tuần hành đến Dinh Độc Lập, (trong số này có người viết - BĐD này cứ 2 tháng vào Dinh  Độc Lập gặp TT một lần để trình bày các trở ngại từ các đô tỉnh thị toàn quốc - BĐD được bầu nhân ngày  Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu tập 554 nghị viên  HĐ ĐTT toàn quốc về dự cơm tối tại tiền đình Dinh Độc Lập vào ngày 9.9.1970, nhiệm kỳ 1970-1974).

Cuộc tuần hành trên nhằm tạo hậu thuẫn cho lập trường của phía VNCH  như trên đã viết,  để chống đối lại một số điều khoản trong hiệp định gây bất lợi cho phía VNCH, và theo  như lời Tướng Westy chia sẻ nêu trên " trong khuôn khổ của cuộc  ngừng bắn mà không có sự cam kết về việc rút quân..." Nhất là về một số  điều khoản cần được phía Mỹ làm rõ  đã được TT Thiệu nêu ra với phái đoàn tuần hành khi đến Dinh Độc Lập vào ngày 26.10.1972. Vì vậy tổng thống Thiệu tuy  không giữ kín, nhưng không vi phạm lời hứa với đại sứ Bunker, vì lời hứa giữ kín được đưa ra vào buổi chiều sau khi đã chia sẻ thông tin đến đoàn  tuần hành và buổi sáng.

Điều  khoản trong dự thảo hiệp định về việc ngừng bắn tại chỗ, và quân CSBV không rút về miền Bắc, nên báo chí Sài Gòn đã ví von gọi là "hiệp định da beo". Riêng phía tỉnh của người viết  vào thời gian cuối năm 1972 và đầu năm 1973 các đơn vị đồn trú  trên lãnh  thổ  của tỉnh được Phòng 2 Tiểu khu phân phát cờ để treo tại một số vùng xôi đậu. Những vùng này vào  ban ngày  phía các đơn vị quân đội gỡ bỏ cờ MTGP và treo cờ quốc gia lên, đêm xuống thì VC tháo cờ quốc gia xuống treo cờ MTGP cho nên báo chí Sài Gòn thời đó ví von gọi  là cuộc " giành dân, lấn đất."


 Tối hậu thư của TT Nixon buộc TT Thiệu trả lời ngày 21.1.2023


Vào ngày 20 tháng 1, khi các cuộc đàm phán gần như kết thúc, ông Nixon đã gửi điều mà ông Hưng gọi là "tối hậu thư" cho ông Thiệu: "Như tôi đã nói với các ông, chúng tôi sẽ ký tắt hiệp định vào ngày 23 tháng 1. Tôi phải biết liệu bây giờ ông  có sẵn sàng tham gia với chúng tôi trong thỏa hiệp này không, và tôi phải có câu trả lời của ông  trước 1200 giờ Washington, ngày 21 tháng 1 năm 1973 - As I have told you, we will initial the agreement on January 23. I must know now whether you are prepared to join us on this course, and I must have your answer by 1200 Washington time, January 21, 1973".  [6]


 TT Thiệu trả  lời tối hậu thư của TT  Nixon


"Đại sứ Bunker đã chuyển cho tôi vào đầu ngày hôm nay lá thư của Ngài  ngày 21 tháng 1, trong đó Ngài  yêu cầu tôi cho Ngài biết trước 12 giờ trưa, ngày 21 tháng 1, theo giờ Washington, rằng liệu Chính phủ Việt Nam có tham gia với Ngài trong việc ký tắt  Hiệp định vào ngày 23 tháng Giêng và ký kết chính thức vào ngày 27 tháng Giêng. Tuy nhiên, tôi phải nói rằng tôi không thể chấp nhận những cáo buộc của Ngài về sự chậm trễ  thông báo cho chính phủ của Ngài biết nhận xét của chúng tôi  liên quan đến thỏa hiệp này, vì chúng tôi nhận ðýợc phiên bản mới nhất của thỏa hiệp vào ngày 11 tháng 1, và những ðiểm mà Chính phủ Việt Nam ðã phản đối trong các bức thư trước của tôi liên quan đến những thay đổi có trong phiên bản mới nhất đó. Đối với văn bản tiếng Việt của các nghị định thư, chúng tôi mới nhận được bản văn  từ Đại sứ quán Hoa Kỳ trong ngày hôm nay. Về vấn đề này, tôi xin nhắc lại với các Ngài  bản ghi nhớ
 của Chính phủ Việt Nam đã được gửi cho Đại sứ Bunker vào ngày 19 tháng 1 và lá thư của tôi ngày 20 tháng 1. Trước những tuyên bố của Ngài rằng viện trợ của Hoa Kỳ cho VNCH sẽ bị cắt đứt nếu tôi không tham gia cùng Ngài,  và những nhận xét của Ngài khiến cho mối quan hệ của chúng ta bắt buộc phải đặt mối quan hệ của chúng ta trên một cơ sở mới, nên tôi đã đi đến các quyết định sau đây.


Liên quan đến việc Hà Nội từ chối rút quân khỏi miền Nam Việt Nam sau khi ngừng bắn, tôi phải nói thẳng rằng tôi không thấy có các điều khoản nào về sự  đảm bảo mà Ngài nêu ra đã đủ để khắc phục tình trạng này. Tuy nhiên, vì lợi ích của sự thống nhất giữa hai Chính phủ của chúng ta, và trên cơ sở đảm bảo mạnh mẽ của các Ngài  về việc tiếp tục viện trợ và hỗ trợ cho Chính phủ Việt Nam sau khi ngừng bắn, tôi  chấp nhận lịch trình của Ngài đã đề ra liên quan đến việc ký tắt  thỏa hiệp vào ngày 23 tháng 1, tùy thuộc vào sự khác biệt giữa văn bản tiếng Anh và tiếng Việt mà tôi đã đề cập với Ngài  trong các lá thư trước đây của tôi."
[7]


 TT Thiệu triệu tập hội nghị "Diên Hồng" tại Vũng Tàu


Theo văn bản ghi trên, TT Nixon ấn định ngày 23.1.1973 là hạn chót phía VNCH  " phải có câu trả lời " về  bản hiệp định.  Vì vậy Tổng thống Thiệu  đã triệu tập cuộc họp tại Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ  XDNT tại Vũng Tàu, từ chiều 23.1.1973 đến sáng ngày 25.1.1973 để chia sẻ các khó khăn và  phía VNCH bị buộc phải ký kết hiệp định chính thức vào ngày 27.1.1973.


Chủ tọa Hội nghị "Diên Hồng" là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và các phụ tá tại Phủ Tổng thống. Ngoài các viên chức  Phủ Tổng thống, thành phần tham dự còn bao gồm các vị thẩm phán Tối Cao Pháp Viện, Thủ tướng và  toàn thể thành viên trong nội các Trần Thiện Khiêm, các sĩ quan cao cấp thuộc Bộ TTM và các Quân đoàn, các nghị sĩ, dân biểu  đứng đầu các ủy ban thuộc Thượng Viện và Hạ viện VNCH. Phía 14 nghị viên trong BĐD thuộc hội đồng Đô-Tỉnh-Thị toàn quốc cũng được mời tham dự (người viết thuộc thành viên trong BĐD cũng có mặt trong phiên họp này).


  Khác biệt: VNCH không được phép đề xuất hòa giải !!!


Nhân chuyện  Mỹ-CSBV thảo luận  về  hòa đàm tại Paris 1972, người viết  nhớ lại tài liệu liên quan đến cuộc  đối thoại giữa hai miền Nam-Bắc về " giải pháp Nhu- Hồ 1963". Theo tài liệu BNG: " Đại sứ Lodge nên cảnh báo rõ ràng cho Diệm biết về sự nguy hiểm của việc đàm phán như vậy- và cảnh cáo nếu  tiếp tục theo đuổi sẽ dẫn đến việc Hoa Kỳ ngừng viện trợ.....Một khi cuộc đảo chính chống Diệm bắt đầu ở Nam Việt-Nam  điều đó sẽ thể hiện rõ ràng sự từ chối của Nam Việt-Nam về  liên minh Diệm-Cộng (Ambassador Lodge should give Diem a clear warning of the dangers of such a course-Once an anti-Diem coup is started in South Viet-Nam, refusal of South Viet-Nam to accept a Diem-Communist coalition). «Thư Viện BNG 26.8.63: Telegram From the CIA Station in Saigon to the Agency  ».


- Phải chăng chỉ có Mỹ mới  được quyền chủ động đề xuất nói chuyện " hòa đàm", còn miền  Nam Việt Nam thời bị cấm kỵ  và  đó cũng là  lý do để Mỹ lật đổ chính phủ VNCH 1963?

- Lý do Mỹ nêu ra trong việc rút quân khỏi Việt Nam là vì " nếu Mỹ tiếp tục chiến tranh phần thắng sẽ nghiêng về phía Liên Xô, vì  Liên Xô muốn Mỹ bị xa lầy tại Việt Nam "( the only gainer in having the war continue is the Soviet Union. They want the U.S. tied down ). «BNG-FRUS - Memorandum ngày 22.02.1972 »  Nhưng sau này theo tài liệu giải mật ,  lý do chính  Mỹ muốn rút quân khỏi  Việt Nam để thực hiện chiến lược của Mỹ tại Việt Nam nhằm chia rẽ Liên Xô và Trung Cộng, để 1979 Mỹ - Tầu hợp tác chống “ con gấu Bắc cực”, chứ không phải vì Mỹ đổ quân vào Việt Nam  để " bảo vệ cái tiền đồn" chống Cộng của Mỹ tại vùng Đông Nam Á như phòng  thông tin Mỹ tại Sài gòn một thời từng rêu rao?


-- Đào Văn


Nguồn:

[1] Thư viện BNG,19.10.1973: Memorandum of Conversationd
[2] Thư Viện BNG, 8-23.10.1972: FRUS #1  to  FRUS #41

[3] Thư viện BNG 24.10.1972:Kissinger to Bunker: 24.10.1972

[4] Thư Viện BNG 25.10.1972:Kissinger to Bunker: 25.10.1972

[5] Thư viện BNG, 26.10.1972:Bunker to Kissingerd; 26.10.1972

[6] Thư viện BNG,20.1.1973: Message From ..Kissinger to the Ambassador to Vietnam (Bunker)

[7] Thư viện BNG 21.1.1973 Letter From South Vietnamese President Thieu to President Nixon

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.