Hôm nay,  

Bến đỗ nào cho em?

21/10/202308:23:00(Xem: 2947)
Truyện

Minh hoa truyen . bendo nao cho em

“Đi về đâu hỡi em? Khi trong lòng không chút nắng…”
    Lời bài hát đâu đó chợt văng vẳng bên tai khi cô bé Thủy rời khỏi nhà ra đi trong nước mắt giàn giụa. Thủy đi mà như chạy trốn tiếng chửi của người mẹ ghẻ vẫn còn gào lên sau lưng Thủy. Mười hai tuổi ra giữa bụi đời, trong tay không có lấy một đồng bạc. Thủy cứ đi lang thang. Tối đâu là nhà, ngủ bờ ngủ bụi, ai cho gì ăn nấy. Khi không có gì bỏ vào miệng thì tới thùng rác lượm xem người ta vứt đi những thứ gì còn sót lại, Thủy ăn để tồn tại. Rồi người ta thuê Thủy bán xì ke, Thủy làm để có tiền sinh sống. Rồi Thủy bị bắt vào police station. Cuộc sống tù đày chưa bao giờ là sướng. Môi trường phức tạp và nhiều rủi ro, cũng xảy ra đánh nhau trong tù. Thế rồi Thủy có bầu và làm mẹ ở tuổi 15. Sinh con trong tù. Con của Thủy được chính phủ Mỹ nhận nuôi. Mãn hạn, Thủy được tự do ra ngoài với cảnh sống của người vô gia cư. Rày đây mai đó. Chỗ ngủ là hiên nhà người ta hay cửa tiệm nào đó. Sáng dậy sớm phải cất dọn mùng mền vào một cái thùng carton hay cái vali cũ lượm ở đâu đó bên thùng rác. Rồi kéo đi cất chỗ nào kín đáo một chút để tối lại dọn ra kiếm chỗ ngã lưng. Làm gì để kiếm ăn trong cuộc sống đầu đường xó chợ của những cảnh đời cơ nhỡ? Thủy lại tiếp tục làm thuê là bán ma túy cho người ta, Thủy lại bị bắt vào tù, mỗi đợt vào từ vài ngày đến vài tháng không biết bao nhiêu lần như vậy. Cuộc sống cứ ra vào tù như thế.
 
***
 
Hôm Tết Nhâm Dần, theo chân một người đi cứu trợ những mảnh đời cơ nhỡ. Chúng tôi gặp chị Thủy, một người đàn bà mới ngoài 40 tuổi, khuôn mặt chai sạn nhàu nhĩ, đầy vẻ dạn dày mưa nắng. Trông chị già trước tuổi rất nhiều. Khi nhận được ánh mắt thiện chí và cử chỉ của người cùng nói Tiếng Việt với mình có lẽ lòng chị ấm lại. Nhóm cứu trợ hỏi han chuyện trò. Chị cũng bộc bạch tâm sự về câu chuyện của đời chị.
    Chị qua Mỹ với cha năm 1984 khi chị mới 4 tuổi.
    – Mẹ chị đâu?
    – Không có mẹ.
    Qua Mỹ một thời gian không lâu, cha chị có vợ kế. Kể từ đây cuộc sống không hề dễ chịu khi sống cùng mẹ ghẻ. Mẹ ghẻ ngày đêm ăn hiếp, mắng mỏ Thủy. Thủy đang tuổi ấu thơ tuổi ăn, tuổi học nhưng điều đó không đến với Thủy nữa. Thay vào đó là ngày ngày đối mặt với ánh nhìn như thù hằn của người mẹ ghẻ kèm đòn roi, mắng chửi. Ăn không đủ no nhưng công việc thì ngập đầu. Tất cả những công việc nặng nhọc trong nhà là dồn lên vai Thủy.
    – Mỗi lần mẹ ghẻ mắng mỏ Thủy, hành hạ Thủy vậy ba không nói gì sao?
    – Không, ba không nói gì.
    Đó là điều buồn nhất của Thủy. Thủy đã mất tình cha thật sự rồi. Thủy tuyệt vọng và cô đơn lắm!
    – Sao chị không báo cảnh sát?
    – Mình còn nhỏ quá nên không biết!
    Cuối cùng chịu không nổi cảnh đòn roi hiếp đáp của người mẹ ghẻ độc ác và người cha vô tâm. Thủy đã bỏ nhà ra đi vào năm 12 tuổi. Có lẽ đó là cách giải quyết mà Thủy đã chọn. Thủy chấp nhận ra đi không có đồng xu dính túi, cũng không có giấy tờ tùy thân với cuộc sống bấp bênh rày đây mai đó lang thang trên đường phố còn hơn là sống trong cảnh sống như ngục tù không có tình thân hay thậm chí là tình người. Cuộc sống bụi đời với không biết bao nhiêu lần chị vào tù ra khám. Người cha không hề tìm kiếm chị dù chỉ một lần.
    Khi ở tuổi 40 chị đã sinh 10 đứa con: 8 trai, 2 gái. Đứa con đầu nay 24 tuổi đã có cuộc sống độc lập ở đâu đó. Còn các đứa con khác nhỏ hơn đang được chính phủ Mỹ nuôi. Hỏi về cha của những đứa bé.
    – Người chồng đầu tiên ngoại tình nên chị buồn nên không chung sống với anh ta nữa. Còn sau đó lần lượt chị sống với thêm 3 người nữa. Đều là người Việt với nhau những mảnh đời cô đơn lạnh lẽo trong cuộc đời mưa gió ráp lại với nhau, sưởi ấm cho nhau dù trong giây lát hay một thời gian dài ngắn nào đó. Khi ở tuổi 40, chị đã qua 4 người chồng và có 10 đứa con.
    – Xin phép chị đưa hình ảnh của chị lên, chị có muốn gặp lại cha mình không?
    – Không!
    – Chị có muốn cho các con của chị biết nơi ở của chị không?
    – Không! Để các cháu yên, các cháu có cuộc đời riêng của mình hi vọng tốt hơn đời chị.
    – Có lúc nào chị nghĩ với tương lai của mình không?
    – Có chứ nhưng biết làm sao được?
    – Chị có muốn kiếm cho mình một công việc và thuê căn phòng nhỏ để cuộc sống ổn định hơn!
    –  Có chứ nhưng không ai thuê cả.
    – Chị học lớp mấy rồi?
    – Học lớp 7.
    – Có biết lái xe không?
    – Không biết lái xe.
    Hỏi chuyện chị và chị cứ trả lời một cách tự nhiên. Thân hình chị chao đảo, không chịu ngồi yên mà cứ nghiêng qua nghiêng lại chông chênh như chính cuộc đời chị vậy. Cử chỉ điệu bộ của chị cũng tự nhiên như cành cây ngọn cỏ lay lắt giữa muôn ngàn gió bão chưa từng được bàn tay người chăm chút uốn nắn.
    Đang dở câu chuyện bỗng có một ông da trắng (cũng là dân vô gia cư với nhau) mặc bộ áo quần nhàu nhĩ tới xỉa xói vào mặt chị mấy câu bằng tiếng Anh:
    – This is my blanket not yours. Why you say that I stole it from you. (Cái chăn của tao sao mày lại nói cái chăn của mày rồi bảo tao ăn cắp?)
    Chị nói:
    – This is mine because when I had the period so the blood stained is still on it. (Cái chăn của tao vì hôm nọ tao có tháng, vết máu còn dính ở đó.)
    Thế mà người đàn ông Tây vẫn cãi lại và cúi xuống lấy cục gạch ném tới chị. Sợ quá! Thế là tụi này cùng chị bỏ chạy tới một quãng xa mà vẫn còn nghe văng vẳng tiếng chửi theo. Một lúc sau có một người đàn ông Việt nói giọng Nam như chị, anh bị cụt một cánh tay, đi tới nơi. Chị giới thiệu:
    – Đây là ông xã mình. Chúng tôi quen nhau và sống với nhau 2 năm rồi.
    Chị quay qua bảo anh:
    – Thằng kia nó ăn cắp cái chăn của em mà nó cứ cãi là của nó. Anh tới đó lấy giùm em cái vali và cái xách về để dọn qua chỗ khác ngủ.
    Đoạn anh tới chỗ lúc nãy kéo về chiếc vali đã cũ và một cái túi cho chị rồi anh vội vã đi. Chị bảo anh về chăm mẹ ảnh vì mẹ ảnh mới bị trượt chân té. Tôi hỏi:
    – Anh có thương chị không?
    – Có. Anh thương và lo lắng cho tôi. Khi kiếm được tiền anh dẫn tôi đi ăn và cho vài đồng tiêu.
    – Có khi nào anh bảo chị sinh con cho anh không?
    – Có! Anh có bảo sinh cho anh đứa con nhưng tôi chưa thể được.
    – Chị có muốn có một công việc gì không? Chị làm được việc gì?
    – Tôi có thể quét dọn nhà cửa và làm việc vặt trong nhà.
    Nhóm cứu trợ biếu chị ít tiền. Ra về lòng tôi nặng trĩu một cảnh đời. Gương mặt chị, câu chuyện của chị cứ ám ảnh tôi chìm trong suy nghĩ miên man. Chị khổ bắt đầu từ đâu? Vì đâu mà nên nỗi?
    Câu hỏi: Giá như không có mẹ ghẻ mà nếu có mẹ ghẻ thì đừng ác độc với con chồng như thế. Và giá như cha chị để mắt tới con gái hơn. Biết phân định phải trái, có trách nhiệm với con cho đến khi con trưởng thành có lẽ cuộc đời chị sẽ khác. Nguyên nhân để một con người sa ngã không có lối về như vậy nguyên nhân do đâu? có phải từ gia đình, từ sự thiếu trách nhiệm của người cha, tạo ra hình hài con mà không bảo bọc được con. Nếu không nuôi được con thì trả cho mẹ nó hay nội ngoại ở quê nhà chứ sao lại mang con qua Mỹ. Lạ nước lạ cái, rồi theo vợ bé mà bỏ con.
    Những câu ca dao ngày xưa lại văng vẳng đâu đây, cào xé lòng tôi. Gió đưa bụi chuối sau hè, Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ… Con mất cha ăn cơm với cá, Con mất mẹ lót lá mà nằm… Bao giờ bánh đúc có xương, Mấy đời mẹ ghẻ mà thương con chồng…
   Cảnh mẹ ghẻ con chồng từ xa xưa đã được dân gian đúc kết trong ca dao và lưu truyền trong các truyện xưa tích cũ mà bà nội tôi thường kể tôi nghe hồi nhỏ như Tấm Cám, Phạm Công Cúc Hoa… lại hiện về như mới, đau nhói trong tôi. Rồi truyện “Mẹ ghẻ con ghẻ” của Hồ Biểu Chánh viết tại Vĩnh Long tháng 10/1943. Và mới đây thôi, câu chuyện đau lòng về một cháu bé 8 tuổi bị nhân tình của bố đánh đến chết. Và còn biết bao câu chuyện đau lòng như thế mà chưa được đưa ra ánh sáng?

– Hoàng Thị Bích Hà

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.