Hôm nay,  

Hai thành phố biển

04/11/202308:07:00(Xem: 2415)
Truyện

city

Ngày thứ tư. Một ngày trước khi lên máy bay trở về thành phố của mình, nàng lăn ra ốm. Cảm thôi, nhưng cảm nặng. Bắt đầu bằng một đêm không ngủ nghẹt cứng mũi và hôm sau dật dờ và mệt như ngàn tảng đá đè nặng lên người. Chắc chắn không thể lết lên máy bay nổi vào hôm sau. Sao thế nhỉ! Vì nàng ngại không bật sưởi mấy đêm? Vì nàng điệu mặc váy ngắn không mang vớ dài hay quần legging ba ngày qua? Vì khí hậu thành phố này đỏng đảnh thất thường độ ẩm cao buổi sáng lành lạnh mà vừa nắng lên đã nóng hực và màn đêm vẫn trùm một chiếc chăn lạnh lên căn nhà cũ nơi bạn nàng đang thuê trọ? Vì mấy câu thơ của anh? Không rõ. Chỉ biết cơn bệnh đến nhanh như một cái lật tay.
    Nàng gọi điện để dời vé máy bay. Hai chuyến, phải, từ đây về đến nhà cần đến hai chuyến bay. Họ ở hai đầu đất nước rộng lớn này. Bốn múi giờ. Hơn sáu ngàn cây số. Chỉ có một chuyến bay cho dời với một mức giá đắt khủng khiếp, chuyến còn lại thậm chí còn không dời được. Chỉ có cách bỏ vé, mua vé mới theo dạng vé giờ chót. Rời rã, mệt mỏi, và bất lực. Chẳng lẽ vì anh, trong tiềm thức, muốn giữ nàng lại bằng một cách thức vô hình nào đó? Hay vì trong tiềm thức nàng đang tìm cớ ở lại để gặp anh? Nàng gọi điện cho văn phòng anh và được trả lời rằng anh sẽ chỉ trở lại vào đầu tuần sau. Vậy là anh không nói dối, không né tránh gặp nàng. Nhưng mà, đầu tuần sau? Nàng lẩm nhẩm. Ở lại một ngày, hai ngày, thậm chí ba ngày, nàng cũng sẽ không gặp được anh. Mà anh cũng sẽ không gặp nàng. Nàng không thể tìm cách thiết lập một cuộc gặp mặt ba hay bốn người khác, còn anh sẽ không gặp nàng một mình. Điện thoại anh tắt máy, đang ở một đất nước khác, không “roaming.” Sẽ không có cách nào liên lạc, và có liên lạc được anh cũng sẽ không trả lời. Vì anh không thể trả lời.
    Tuyệt vọng, nàng nghĩ, thôi, có lẽ đành bỏ vé. Nếu thế, đây sẽ là lần đầu tiên trong lịch sử 25 năm đi lại bằng máy bay mà nàng lỡ chuyến bay vì bệnh. Thôi thì, cái gì cũng có lần đầu. Chấp nhận số phận, qua đêm nay tính tiếp. Nàng uống hai viên thuốc Ny QuickCold của Vicks bạn nàng đưa, ngủ li bì một ngày một đêm. Hôm sau, như con búp bê vỡ vụn được dán hờ lại bằng mấy miếng băng keo, nàng lục cục dồn chút sức tàn, đưa con gái ra sân bay, về nhà. Giữa họ, đã chấm dứt vĩnh viễn, nàng biết.
    Về nhà, mở máy tính, google map, một địa chỉ hiện lên. Thẫn thờ. Đó là nơi nàng muốn đến nhất ở thành phố này. Và cuối cùng sau chuyến đi 5 ngày, đã trở về nhà, nàng vẫn chưa đến đó. Địa chỉ văn phòng anh. Không phải nhà riêng. Khi máy bay vừa hạ cánh, ngồi trên taxi đi vào thành phố, trong làn gió đêm mát lạnh, nàng căng lồng ngực ra mà hít thở không khí của thành phố anh. Không khí mà anh thở từng ngày. Đường phố nào nhìn cũng thân quen, vì anh chắc chắn đã từng đi qua những con đường này. Ngay cả những ngôi nhà cũng có vẻ thân quen, đặc biệt, và nổi trội, chỉ vì, đây là thành phố của anh. Thành phố của anh. Trái tim nàng rộn lên khi nhìn thấy tên đường có văn phòng anh. Nhưng, đó là một con đường rất dài, và nàng đã không đến được địa chỉ đó. Y như, trong một giấc mơ của nàng, nàng trôi, trôi ngày càng xa. Và, “anh hẹn em nhất định gặp, lần sau”, như nàng đã viết sau giấc mơ đó.
    Nàng biết, chuyến đi này phải diễn ra. Từ khi nàng bắt đầu quen anh, nàng đã muốn đến thăm anh. Chuyến đi lẽ ra đã diễn ra, thậm chí trước khi họ biết nhau. 2018. 2019. 2020. Nhưng chưa bao giờ thành hiện thực. Từ khi họ còn yêu nhau thắm thiết đến khi họ cách trở như hôm nay. Chuyến đi có một ý nghĩa đặc biệt với nàng. Nàng muốn gặp anh nhưng quyết định để cho duyên phận, cho trời quyết định. Không liên lạc được với anh, nàng chỉ định ngày đi vì một phút hứng khởi. Mua vé vào ngày hôm sau. Lăn ra ốm tuần sau đó, mà nàng cười cười bảo bạn nàng là “nếu chỉ chậm vài ngày thôi là đã không quyết định đi rồi.”
    Chuyện tình của họ, thật ra, không phải đang nồng nàn, mà đang đi vào đoạn kết. Tình yêu, ở trạng thái nồng cháy nhất, thường chỉ sống được khoảng 3 năm. Bây giờ đã là cuối năm thứ ba vắt vẻo sang đầu năm tư. Trái ngang. Giấu giếm. Lén lút. Vợ anh phát hiện ra chuyện tình của họ vào khoảng năm thứ hai khi họ đang thắm thiết nhất. Anh nói lời chia tay. Trái tim nàng tan vỡ và 6 tháng phủ đầy nước mắt. Rồi họ lại liên lạc lại, nhưng không được nói chuyện yêu đương nữa. Bằng một cách nào đó, anh thuyết phục được người vợ ngây thơ của mình là họ sẽ chỉ là bạn bè. Vợ anh đồng ý. Tất nhiên họ không chỉ là bạn bè được. Nhưng những liên lạc trong khoảng thời gian đó đã làm nảy sinh những ràng buộc và liên đới khác đủ để giữ chân nàng lại với anh tiếp tục. Một năm. Một năm nữa. Đã có hai lần anh dứt áo ra đi, quyết liệt không biết nàng nữa. Còn nàng dứt áo như cơm bữa. Nhưng rồi cũng chẳng đi được đến đâu. Còn nợ phải trả. Nhưng nợ ảo, nàng cười. Đến giai đoạn cuối này, vợ anh chỉ cần nghe tên nàng đã vật vã ngồi khóc không nín nhiều ngày, người phụ nữ xinh đẹp hiền lành hơi khắc kỷ chỉ biết yêu thương chồng con hết mực đó không thể chịu đựng nổi ý nghĩ chồng mình còn liên lạc với nàng, cho dù dưới bất cứ hình thức nào. Anh rơi vào im lặng. Họ vẫn còn tồn tại cạnh nhau, vẫn có những liên lạc xa gần, dưới những “nick” ảo luôn được tạo ra, bị giết chết, thay mới và tiếp tục bị giết chết của nàng.

    Nàng bấm hủy kết bạn với anh. Hai tài khoản ảo cuối cùng. Sẽ không có tài khoản nào nữa được tạo ra. Cũng sẽ không có một hoạt động chung nào có dính đến anh sẽ được tiến hành. Nàng, đã đến được thành phố đó. Đã làm hết sức của nàng. Đã đến ngưỡng. Một cái ngưỡng tự tạo như là một giới hạn của tất cả những yêu thương quan tâm dồn nén chịu đựng cho một người mà nàng có thể làm được. Để rồi, ra đi, thanh thản. Không bao giờ hối tiếc. Vì đã làm hết sức mình. Vì có cố hơn nữa cũng chỉ thế mà thôi. Vì, trời đã định là họ sẽ không gặp nhau.
    Thành phố này, là một trộn lẫn giữa những thành phố nàng đã sống. Một thành phố biển, giống như thành phố biển nơi nàng sống. Ở đây, biển ấm, như luồng năng lượng ấm sực nồng nhiệt của anh. Ở nơi nàng, biển lạnh, như sự thay đổi xuống lên thất thường của nàng. Từ bờ biển đến bờ biển. Nhưng, cũng như từ hai thành phố biển khác từ một không gian xa xưa. Melbourne-Sydney. Cách nhau 1,000 cây số. Thành phố của anh, giống Sydney đến lạ, có cầu cảng, có phà. Nàng đã từng bỏ tiền mua vé máy bay đến Sydney, chỉ để ngồi khóc ngất một đêm, chỉ để nhớ lại chuyện tình quá khứ 6 năm về trước của nàng. Seabus qua Lonsdale Quay, hay là ferry qua Manly Beach, giống giống nhau. Yêu dấu năm xưa và yêu dấu năm nay. Anh là hình bóng người cũ được nàng khôi phục lại, tạo dựng lại, “resurrect,” giống như người ta “gọi hồn” sống dậy. Thật ra anh chẳng giống gì người yêu cũ của nàng. Họ chỉ tình cờ sống cùng quê, chứ từ gương mặt, tính cách, nghề nghiệp, sở thích, tuổi tác, chẳng có gì giống cả. Chỉ vì nàng thích gọi anh là resurrection, thế thôi. Tình yêu với anh, có phải cũng là tình yêu mô phỏng? Không biết. Chỉ biết là ngày xưa nàng đã yêu anh chàng ở Sydney đến cháy ruột cháy gan, yêu anh ấy nhiều hơn cả bản thân mình. Và bây giờ nàng cũng bao nhiêu lần lịm khóc nghe tình yêu anh thấm mềm phế phủ chạy trong từng đường gân thớ thịt. Dẫu nàng biết anh chẳng yêu nàng bao nhiêu. Người yêu xưa, cũng thế. Ở một góc độ nào đó, anh có yêu nàng nhiều hơn người yêu xưa của nàng. Ừ, thì, ít nhất mình có tiến bộ, nàng cười buồn buồn.
    Những người nàng rất yêu, nàng sẽ không với tới họ. Như anh chàng ngày xưa. Như anh. Những người mà vì họ nàng có thể bỏ tiền mua vé máy bay, đi đến đó, chỉ để cảm thấy mình ở cùng một thành phố. Một thành phố vài triệu dân. Lần đầu anh nói chia tay, nàng khóc ngất và đau đớn nhận ra, hai mươi năm sau, kết quả cũng như hai mươi năm trước mà thôi. Trời đã dạy nàng rất rõ rằng, nàng sẽ không có được những con người đó. Thiên ý. Còn anh? Đến cả một lần gặp mặt, cũng sẽ không có. Nàng nhìn những con sóng lăn theo con phà mà thấy cái đau đớn hai mươi năm xưa và cái đau đớn hôm nay quyện hòa vào nhau, thấm thía, dìu dịu. Già rồi, trung niên rồi, vẫn mau nước mắt nhưng sẽ không lăn ra đòi sống đòi chết nữa, nàng im lặng và chấp nhận nỗi buồn thẩm thấu xuyên suốt cơ thể mình như miếng quỳ tím lặng thầm hóa đỏ trong dung dịch acid sulfuric. Mềm mại, dịu oặt, êm êm, nỗi buồn ngậm lấy nàng trong một lớp kén mềm bao phủ. Không lối thoát.
    Hai mươi năm, chẳng lẽ mình vẫn thất bại và đau khổ như ngày xưa. Con gái vừa hỏi gì đó, nàng ngước mặt lên. Cặp mắt con bé sáng lung linh, gương mặt xinh xắn thông minh giống bố. Ừ, thì mình có nó. Con gái, chồng, gia đình. Bớt bất ổn bản thân. Hai mươi năm tạo dựng, thành quả. Và những hệ lụy và chịu đựng thầm lặng khác.
    Họ sẽ quên nhau. Anh sẽ quên nàng. Nàng sẽ quên anh. Nắng chéo góc hôn lên mái tóc nâu dợn sóng của con gái nàng ánh lên một chút màu hung đỏ. Thành phố này nhiều mưa, bạn nàng bảo nàng may mắn quá vì gặp nắng đẹp long lanh trong suốt những ngày đến đây. Con gái nàng được đi chơi nhiều chỗ dành cho trẻ con trong mấy ngày qua, tiếng cười trong như ngọc, lanh canh, hớn hở.
    Hai ngày trước khi đi, nàng đã đi uốn tóc. Nàng nghĩ anh thích tóc thẳng. Cũng như chồng nàng. Cũng như vợ anh, một mái tóc thẳng mười mấy năm. Vì vậy nên nàng phải uốn. Sẽ già đi, sẽ xấu xí đi. Cũng chẳng sao. Để nhớ, là phải quên anh, và sẽ quên anh. Hồi hộp ngồi trên ghế ở tiệm làm tóc ba giờ đồng hồ, để ngạc nhiên thấy rằng, cũng không đến nỗi xấu lắm. Mái tóc quăn tạo cho nàng một vẻ đằm sâu thăm thẳm, một vẻ đẹp trưởng thành và ‘phức tạp’ (sophisticated) hơn. Có lẽ, cuộc sống, cũng sẽ không đến nỗi quá tệ. Nếu em chỉ có một miếng chanh héo, ừ thì có lẽ em vẫn pha được một ly chanh muối, anh nhỉ!
    “Khi em đã ở trong thành phố biển/Cùng một lớp học với anh/ Vẫn hẹn em nhất định gặp/ Lần sau”. Con đường rộng lớn phía đông. Nàng sờ sờ mái tóc. Đóng máy tính. Sẽ không có lần sau.

-- Trần Hạ Vi

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.