Hôm nay,  

Em Về Tháng Ba…

05/04/202400:00:00(Xem: 4063)
Ann-Phong-1
Minh họa Ann Phong

 

Tố Như tiên sinh đã để lại cho hậu thế câu thơ tháng ba đẹp như tranh trong truyện Kiều, “cỏ non xanh tận chân trời/ cành lê trắng điểm một vài bông hoa…” Đọc xong câu thơ thì nửa số người đọc đã nhắm mắt lại để hình dung ra bức tranh mùa xuân vẽ bằng thơ; với hai màu xanh, trắng vào tay hoạ sĩ, chúng ta có bức tranh chiêm ngưỡng bằng mắt, nhưng với nhà thơ chúng ta có bức tranh trong trí tưởng tuyệt vời… Tôi nói với ông bạn mê thơ đang ngồi chung bàn cà phê mà mọi người đang nói chuyện thời sự nên không phù hợp với một sáng tháng ba trời mát lạnh vì mưa đêm qua rả rích tới sáng, anh em rủ nhau ra ngoài trời ngồi uống cà phê cho mấy ông bạn còn hút thuốc được thỏa mãn thú tính. Thế là những ông đã giã từ làn khói mỏng bị những ông còn hút thuốc giận cho, rồi cãi nhau.

 

Người ta nói người già tâm tính trở lại thời thơ dại cũng đúng vì mấy ông già cãi nhau những chuyện rất trẻ con, rồi giận nhau đến bỏ về… để uống thuốc hạ tăng xông máu. Nhưng tuần sau lại thấy ngồi cà phê với nhau vì bạn già thì chỉ có chết bớt chứ đâu có bạn mới, hệt như hồi nhỏ chơi tạt lon, tạt bao thuốc lá…. rồi giận đứa chơi ăn gian, thề không bao giờ chơi với thằng ăn gian nữa nhưng lời thề qua đêm hết hiệu lực nên sáng ra chơi tiếp vì không chơi thì chơi với ai?

 

Tôi không nói quá đâu, ở đây muốn có bạn gái dễ hơn có bạn già vì hết con gái đẹp không hẹn mà cùng dọn nhà về Dallas. Nhưng có bạn gái khác nào tự nộp đơn xin việc làm mà lại không ăn lương thì ai dại đến từ chối. Khác xa bạn già nói ra là cãi, cãi thua thì bỏ về uống thuốc hạ máu; nằm nghỉ một lát là hết giận vì giận thì giận mà thương thì thương mấy ông bạn già nên tuần sau lại gọi nhau đi uống cà phê, đại trượng phu không nhớ chuyện tuần trước…

 

Sáng nay mấy ông già hưng phấn theo xuân về nên nói chuyện gái gú như ai cũng hồi xuân. Tổng kết lại là ông trời luôn chơi khăm đàn ông. Cứ hễ người phụ nữ nào được người đàn ông thích thì đương sự không biết từ đâu mà có đến ngàn lý do để tránh mặt, rồi biến mất. Làm người đàn ông thương nhớ, đau khổ tới già mới ngộ ra, mình chỉ thích có mỗi cái răng khểnh, cái nốt ruồi thì hà cớ gì phải cưới nguyên một con vợ, không cưới được thì thương nhớ tới già, tới chết, sao không quên nó đi như quên cái ngu mấy chục năm rồi, người ta sống phải khôn ra chứ!

 

Nhưng người phụ nữ mà đàn ông không hiểu sao mình lại thích người này, thì chín mươi chín phần trăm ông trời sẽ trừng phạt cho tàn một đời trai trong tay những con gấu mẹ vĩ đại thì nói tới sang xuân rồi hạ cũng không hết chuyện nhà tôi… nên nói chuyện cua gái cho vui.

 

Hồi trẻ lắm chiêu nhiều chước tung ra cua gái, tới già nghĩ lại mới thấy ngu. Tôi không biết mấy ông bạn đang ngồi đây ngu thật hay giả để câu chuyện họ kể ra thêm vui cho bạn cà phê sáng cuối tuần. Tôi chỉ kể được một kinh nghiệm đau đớn thời tuổi trẻ. Giả sử như tan học, trời ban trưa nóng như lửa đốt lại đói bụng nữa. Nhưng phía trước có tiên nữ hạ trần đạp xe không sợ nắng. Cha mẹ ơi, con gái luôn đẹp với cái lưng thẳng, vai ngang tướng mệnh phụ. Sau này không thành bà nọ bà kia thì cũng làm người mẫu áo dài dư sức nuôi trai, lại có mái tóc dài như má không cho tiền đi cắt tóc bao giờ nhưng đẹp hoang dại vì vừa đủ hoang dã giữa thị thành. Vậy là tôi tăng tốc như thằng giật đồ vặt trên đường nhưng đầu óc không phạm pháp vì chỉ muốn… “cho anh xin số nhà, cho anh xin biết tên đường, và cho anh xin biết tên em luôn.” Nhưng lên tới, liếc ngang qua người ta xem mặt thì má ơi! Làm trời nóng gấp đôi ba lần thời tiết, cơn đói bùng lên tới hoa mắt. Mà đâu phải một lần, bị hoài thời xe đạp đua theo gái. Ôi những vòng quay, những vòng đời, hễ gặp em đẹp thì anh không may, em nhìn hay hay nên anh may may rủi rủi, em như con hủi, anh tông vô cột đèn chết sướng hơn…

 

Lần khác ngậm bồ hòn mới đau, đua theo gái gặp hôm trời Sài gòn không nắng cũng không mưa nên người ta cười với tôi mới chết con ông Địa. Trò chuyện được một quãng đường đã biết tên, số nhà mới sướng rơn người nữa chứ! Đêm về sợ ngủ là quên nên ghi lên giấy để đầu giường cho chắc ăn. Mấy hôm sau tan học đổi đường về để ghé chơi nhà giàu vì địa chỉ không xẹt, suite gì hết là nhà mặt tiền đường lớn; con nhà giàu, đẹp, dễ thương, thương nhất là không chảnh. Nên cứ tà tà đạp xe tìm số nhà, tới 268 Trần Hưng Đạo thì đúng là nhà to, quá to, nhà mặt tiền đường đại lộ, nhưng cho tiền cũng không vào, ngậm bồ hòn đạp đi cho lẹ vì đó là Sở Công an thành phố HCM, làm nhớ hoài con gái bà Chúa đểu tới già. Không biết bây giờ nơi đâu, có còn đủ đẹp để mong nhớ; đặc biệt là tính ác bớt chưa, đừng có nói với tôi là em đã quy y, Phật tử có pháp danh là Đểu muội...

 

Mấy ông bạn tôi nghe kể đều khoái, thì ra ông nào cũng từng bị tổ trác. Đúng là nhân bất thập toàn, người có gương mặt đẹp thì dáng lại không hay và ngược lại. Thậm chí người mười phân vẹn mười như Thúy Vân trong truyện Kiều thì tính nết lại mưa nắng thất thường như khẳng định là nhân bất thập toàn, con người không chứng nọ cũng tật kia, con nguy hiểm nhất là con gái.

 

Đến ông lính già kể chuyện còn đau hơn nữa, cứ nghỉ phép được một hai ngày, không đủ thời gian từ miền trung về miền tây thăm gia đình thì ra phố núi, ra thị trấn nào đó vui chơi cho khác tiền đồn heo hút gió. Lần ông gặp may nên cũng được một em ở phố núi cao hiểu lòng anh lính chiến xa nhà nên thề mây hẹn gió, thề trăng hẹn biển. Nhưng lần sau còn sống thì mới về được tới phố núi chớ; tìm em như thể tìm chim, nhưng chim nào có bay biển bắc anh tìm biển nam gì đâu, nó ngồi chình ình trên xe jeep mà thằng cầm lái tới ba bông trên vai, tủi thân mình cuốc bộ vì có một bông mai cô đơn trên vai nên biết làm gì hơn là đi nhậu bí tỉ tới hết tiền thì về nơi gió cát, rừng già…

 

Tới ông Thìn với cô Nhung đi chợ riêng về nấu cơm chung, hai người đẩy hai cái xe chợ như tình cờ gặp người quen ngoài chợ. Mà ngộ thật, chuyện gì giấu được chứ khi tình trong như đã mặt ngoài còn e làm cho người ta lúng túng, thiếu tự nhiên ở mọi lứa tuổi mới mắc cười. Dù sao thì cánh đàn ông ở địa phương cũng lác mắt nhìn theo cô Nhung đã năm bó lẻ nhưng trời cho xuân sắc lâu tàn lại biết chăm sóc bản thân nên còn mát mắt lắm. Cô là người hiền, gương mặt sáng, dáng sang, ăn nói nhỏ nhẹ… quá đủ cho mấy khứa vợ bỏ nằm mơ. Nhưng cô Nhung không thuộc loại nhan sắc tỷ lệ nghịch với chỉ số IQ nên cô cứ ung dung, tự tại trêu ngươi mấy khứa già độc cô cầu bại. Nhưng đó cũng là một tội nghiệt trong vô lượng kiếp, cho ai một kiếp không tình cũng còn nghĩa, huống hồ cô cũng năm bó lẻ rồi mà cứ giữ giá cao. Cả bàn cà phê quyết định giữ giá thì cho cô ở giá luôn. Đừng ai buông lời tán tỉnh cô nữa, xem sao?

 

Nhưng đàn ông có biết trung thành là gì? Đàn ông không có bạn lâu dài, không có thù mãi mãi, chỉ có quyền lợi là trên hết. Nên khi đồng minh còn lấn cấn đã hứa với anh em, vì u mê sĩ diện hão, quân tử tàu: nhất ngôn cửu đỉnh tứ mã nan truy thì cha nội Thìn, ông Thìn vợ bỏ ai chả biết hết rồi, nhưng đâu phải ai cũng biết vì sao vợ bỏ, nhiều khi ông ấy giỏi quá nên vợ hổ thẹn thì sao? Khoan hãy nói chuyện nhân vật thuộc hàng hiếm này. Ở đây còn có ông Thìn khai thuế, ông Thìn bán nước nữa nên phải thêm biệt danh thì người nghe mới rõ là ông Thìn nào? Ông Thìn khai thuế là Phật tái sanh, làm nghề khai thuế mà gặp người nghèo thì không lấy tiền công, còn lén vợ cho người nghèo mượn tiền đóng thuế rồi trả góp, không lấy tiền lời. Có trách thì trách người nghèo còn nhiều chuyện nên nghèo trọn bộ. Thay vì lặng lẽ trả góp là xong chuyện, ai xui nghe người ta chửi ông Thìn khai thuế cà chớn chống xâm lăng rồi chịu không nổi, ra mặt bênh vực cho ông là người tốt, giúp đỡ đồng hương khó khăn, ủng hộ phong trào dân chủ trong nước mà nói là cà chớn. Người nói ông cà chớn mới đúng là đồ cà chớn… Làm ông Thìn khai thuế xém lên thiên đường vì vợ ông là truyền nhân của Hoạn Thư, dễ gì không nổi tam bành mụ lên khi đồng hương khó khăn kia nghèo tiền nhưng hơi dư lửa, bốc thấy nên mới thành chuyện cộng đồng. Dư luận đa chiều đã nhiều, sáng nay mới được nghe đương sự tỏ bày. Lòng từ bi bất ngờ của đàn ông quả sinh nghi…

 

Đến ông Thìn bán nước hay còn gọi là ông Thìn Dân chủ mới mâu thuẫn vì ông chống cộng ác liệt triệt để, người hăng hái nhất trong việc gây quỹ ủng hộ những phong trào dân chủ trong nước, những nhà bất đồng chính kiến trong nước bị bức hại là ngoài này ông tổ chức gây qũy ủng hộ, biểu tình rùm beng… Nhớ vụ luật sư Lê Thị Công Nhân bênh vực người thấp cổ bé họng trong nước nên cô bị nhà cầm quyền bỏ tù. Ngoài này ông đứng ngồi không yên, chả lo làm ăn mà cứ lo cho liệt nữ trong tù làm chạnh lòng người nằm bên cạnh. Đến ông nghe tin nhà báo Tiêu Dao Bảo Cự từ Huế bay qua thăm cộng đồng chống cộng có tiếng ở hải ngoại là ông có mặt nghênh đón nhà đấu tranh dân chủ. Những người chống cộng nổi tiếng ở thành Đà nhưng không dám chụp hình chung với nhà văn Bảo Cự vì họ sắp về Việt nam, sợ gặp rắc rối với nhà cầm quyền. Ông Thìn Dân chủ chửi hết là bọn võ mồm.

 

Phần ông cứ lo đấu tranh dân chủ cho quê nhà nên sao nhãng chuyện làm ăn. Vợ ông Thìn Dân chủ thay chồng làm kinh tế để nuôi con. Bà mở dịch vụ bán nước, bà con rất tin tưởng đem bình không đến lấy nước lọc ở tiệm bà đầy bình rồi trả tiền. Bà làm ăn lương thiện, đúng tiêu chuẩn nước lọc của FDA, giá cả lại phải chăng hơn tiệm Mỹ nên đồng hương ủng hộ. Từ đó, ông Thìn Dân chủ nổi tiếng hơn với biệt danh thứ hai là ông Thìn bán nước! Tự sự với anh em, ông chỉ nói sau lưng vợ, không biết vợ tôi có phải do Hà nội gài qua thực hiện Nghị quyết 36 không nữa…?

 

Còn ông Thìn vợ bỏ thì ai nổi tiếng bằng ông, ai không biết con người vui tính, rộng rãi, bá nghệ nhưng rất hàn lâm, ông giỏi thật vì sơ sơ thông thạo bốn thứ tiếng, từng học đại học ở Mỹ tới ba trường nhưng không tốt nghiệp trường nào hết vì nhiều lý do mà ông tồng kết lại là ông có số làm cu li. Nên không ai biết được vì sao ông bị vợ bỏ. Có hỏi ông ông cũng chỉ cười, trả lời, “Không có lửa làm sao có khói, lỗi tại tôi. Được bà xã chừa cho cái mạng già đã là từ bi có thật rồi!” Ông không giận vợ đã cưới bỏ ông mà giận vợ sắp cưới chờ hoài không tới, lỡ bồ cũ không rủ cũng tới là chết chắc luôn ở ngã ba đường.

 

Cả bàn cà phê thôi cãi nhau. Ai nấy đều quen biết ông Thìn vợ bỏ, nhưng sáng nay mới được nghe người làm chung hãng với ông ấy và cô Nhung kể chuyện hai người cho anh em nghe. Thì ra may mắn nào cũng có bàn tay ông trời giúp đỡ vì cô Nhung chỉ có một ở thành Đà trong khi mấy ông vợ bỏ thì nhiều như ruồi ở khu chợ, quán cà phê Việt nam tiết xuân về. Cái bàn cà phê này thôi đã dư sức cho cô Nhung chọn một tặng một cũng có luôn. Ông Huế của ta, ta có Huế tự hào mới trò chuyện thơ văn với tôi ban nãy đây nè. Không lo đi làm cho tử tế mà cứ mải mê thơ văn, đọc thơ mùa thu rồi ngâm thơ mùa đông nên vợ cho ăn chùa ngủ nhà thờ luôn cho tiện. Ông cũng từng thả thính cô Nhung khi có cơ hội gặp ngoài chùa nhưng cô ngại người đàn ông chỉ đứng tới vai cô, tán gái mà cứ phải ngước lên như đi xin sữa, thật ngại.

  

Người bạn kể tiếp chuyện ông Thìn vợ bỏ. Tính ông vui là thế nên hôm nào ông không đi làm thì đồng nghiệp đồng hương buồn lắm, ai cũng ngồi ngáp vặt. Không ai ngờ ông nói với cô Nhung, “đánh chó chạy đi chứ ai đánh chó chạy lại”, vì ông cứ rảnh tay là đến chỗ cô Nhung cà khịa, gặp hôm khó ở thì cô ấy đuổi đi. Nhưng không ngờ câu dân gian ấy phải người trong cuộc mới hiểu vì cô cũng dang dở. Lý do hiểu được là cô không có con, chịu không nổi áp lực bên gia đình chồng nên cô đâm đơn ly dị. Cô nghe ra thiên lý ở đời theo ý ông Thìn, đánh chó chạy đi là người chồng phụ bạc cô nhưng còn sợ tiếng đời nên ép cô đâm đơn ly dị. Sao cô lại đánh chó chạy lại là ông? Vợ bỏ coi như được ra tù, ai dại dẫn thân vào đó lần nữa theo lý trí bao giờ, nhưng con tim không có lý lẽ.

 

Gừng càng già càng cay, chưa biết cay cỡ nào khi việc của ông ở đầu dây chuyền sản xuất, việc của cô ở cuối dây chuyền vì cô phải kiểm lại sản phẩm khi thành phẩm trước khi cho qua QC. Nhưng sản phẩm tới tay cô là cô cầm lên chỗ ông, bắt làm lại. Cô cảnh cáo ông về tội làm ẩu, cô chê ông làm dở, làm gì mà xấu quắc, thấy ghê, làm gì mà dơ hèm vậy…? Không biết cô có biết hay không? Ai cũng tin là cô biết nhưng trước khi thành phụ nữ cô là con gái mà con gái nói có là không, nói không là có... Ông cố tình làm sai, làm ẩu, làm thấy ghê hay dơ bẩn sản phẩm nhưng chút xíu thôi để cô đến chỗ ông bắt làm lại. Ông lại có cơ hội đến chỗ cô để xin lỗi, và hứa cho nhiều cũng vâỵ thôi. Cứ mỗi lần hai người lên xuống với nhau trên danh nghĩa việc làm thì bọn trẻ trong line lại râm ran, “anh ở đầu line em cuối line, giỡn chơi một chút mà có thai.”  Ông Thìn cười khoái chí bao nhiêu thì cô Nhung giận ra mặt, nhưng sao hai má cô lại hồng hồng..

 

Ông cứ tìm cớ đến chỗ cô, vừa đi vừa hát tửng tửng như trời đất chỉ có hai người, “bằng lòng đi em vê với quê anh, một cù lao xanh một dòng sông xanh. Bằng lòng đi em thưa má thưa ba, mình ngồi bên nhau chuyện trò thâu đêm…” Mọi người vỗ tay khen ông hát hay nên ông tới luôn, tấn công cô Nhung tới tắp nên lỏng lẻo phòng thủ, bị bà già chằn ăn trăn quấn làm với cô Nhung tức giận bà trang lứa với ông sao không thả thính mà cứ đi lên đi xuống may mà có em với cô Nhung trẻ đẹp, ít nhất cũng là trẻ hơn tuổi thật của cô nhiều. Bà ghen ngầm mới ghê, nhưng làm ông cứng họng, làm nên trận cười muốn vỡ hãng xưởng. Bà nói, “về cù lao xanh làm gì cho muỗi chích, chuyện trò gì tới thâu đêm… Con Nhung ở nhà có máy lạnh, ngủ có giường nệm rồi. Còn trẻ lại không chồng đêm bảy ngày ba ra vào không kể, nhắm nổi không mà gù người ta hoài…” Ai nấy cười như chưa bao giờ được cười. Cười nhất là ông Thìn như chó cụp đuôi, lủi lủi bỏ đi thấy thương. Cô Nhung bụm mặt xấu hổ với bà già ó đâm.

 

Sau đó ông đổi lời nhạc chế mua vui… “bằng lòng đi em anh về quê dẫn má lên liền. Ngày mai đám cưới rước dâu bằng bằng xe ba bánh. Ba má ngồi trên đầu xe, hai đứa mình ngồi ở sau vè…” Lần nào hát xong ông cũng nhận được tràng vỗ tay tán thưởng của đám trẻ. Ông giỡn riết thành tật, ông đưa bất cứ gì cho cô cũng qùy xuống một chân như trao chiếc nhẫn cầu hôn làm mọi người không nhịn được cười. Ông vốn vui tính nên hát hò suốt ngày, có hôm ông hát, “Về đây nghe em, về đây nghe em. Về đây mặc áo the đi guốc mộc. Kể chuyện tình bằng lời ca dao. Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới. Kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai…” Trời ơi! Ai nấy hết hồn vì ông già hát lên tông cao ngọt như mía lùi rồi thả giọng ngọt ngào… “Và về đây nghe lại tiếng xưa…” Tụi nhỏ nói hôm đó ông uống lộn thuốc nên sung sảng, chơi luôn như đang ở quán karaoke, ông hát hay thật, “Về đây nghe em, về đây nghe em. Về đây thoả ước mơ đi hát dạo. Để chào đời bằng hạt sương mai. Để bằng lòng ngọt ngào hấp hối. Và hận thù người người lắng xuống. Và tìm nhau như tìm xót xa. Trong lúc lệ đã đầy vơi…”

 

Ông hát thật lòng nên tiếng hát truyền cảm làm xiêu lòng cô Nhung. Ông Thìn đốn ngã cô Nhưng là tin nóng trong hãng, lan ra nhà thờ, tới chợ, nhà hàng Việt nam… Kết thúc ở casino bên Oklahoma khi thằng nhóc trong hãng đã thấy hai người bên nhau ở sòng bài lúc nửa đêm. Nhưng nó đi sòng bài với con nhỏ Mễ nên tránh mặt cô chú cho cô chú bớt ngại. Nó cũng không muốn cô chú biết nó cặp bồ với con nhỏ Mễ nên tránh mặt. Nhưng tật nhiều chuyện của nó không bỏ được nên về hãng kể với bà chị kín tiếng nhất hãng, nhưng không có khế ước thời gian bảo mật bao lâu nên ai cũng biết.

 

Thôi cũng mừng cho ông Thìn vợ bỏ khi cô Nhung đã bằng lòng ngọt ngào hấp hối… Già rồi thì rổ rá cạp lại, góp gạo thổi cơm chung cho bớt cô đơn. Cô lại có ông Tuấn Ngọc hát cho nghe mỗi ngày thì quá sướng, ông Thìn khi bình thường nói tiếng nam cho hoà đồng, nhưng khi hát thì ông là người bắc di cư, ông hát giọng bắc xuất sắc, từng hát cho ca đoàn nhà thờ, từng mở quán karaoke làm ăn khấm khá… nhưng ông cũng bởi đam mê âm nhạc tới quá đà với một tiếng hát học trò nào đó nên mới bị vợ bỏ, nghe người ta nói vậy! Chỉ biết nghe ông hát nhưng không nhìn mặt thì tưởng nghe Tuấn Ngọc hát, ai cũng nghĩ vậy. Ông còn hơn ông Tuấn Ngọc mặt buồn vì mặt ông rất vui, hài hài, tếu tếu của kẻ nghịch ngầm. Tôi mà biết viết nhạc thì sẽ viết cho ông bài “em về tháng ba…” vì thấy hai người đi chợ riêng về nấu cơm chung nó vui vui pha một chút ngậm ngùi cho hai người đã có tuổi. Người ta nói: tình yêu không có tuổi vì họ chưa thấy đó thôi, chưa thấy thời gian hằn trên mối tình già vừa chớm nở… 

Phan

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.