Hôm nay,  

Thời khắc cuối cùng

09/04/202416:08:00(Xem: 2973)
Hồi ký

30-4 image
Ngày 29 tháng tư 1975.
    Những ngày cuối tháng tư quân trường Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung vẫn đang cắm trại, chồng tôi chưa về, nhưng trước khi đi anh đã bảo tôi ở nhà có gì thì bám theo cha mẹ và các em để đùm bọc lẫn nhau. Gia đình cha mẹ tôi ở gần nên hai nhà như một.
    Cha tôi cũng đang “cắm trại” tại phủ thủ tướng. Ông là cảnh sát viên an ninh ở đó. Từ sáng đến giờ những tiếng súng to súng nhỏ vẫn thỉnh thoảng vang rền khắp thành phố, hình như cộng quân sắp tràn vào Sài Gòn. Chị em tôi bàn bạc phải chia ra chạy nạn kẻo chết chùm cả đám vì pháo kích của việt cộng từ phía An Phú Đông sang phi trường Tân Sơn Nhất phải đi qua hướng xóm mình. Tôi sẽ mang con và dắt theo mấy đứa em lên ngã bảy ở nhờ nhà gia đình người anh chồng. Mấy đứa em lớn còn lại sẽ ở nhà với mẹ tôi để… giữ nhà.
Thuê được chiếc xe xích lô máy với giá cả đắt đỏ. Con nhỏ 5 tuổi, ba đứa em cũng còn nhỏ, một đứa 10 tuổi,  9 tuổi và một đứa 6 tuổi . Chúng thích thú giành nhau chỗ ngồi trên xe, dưới sàn xe và…sung sướng cứ y như đang được chở đi du ngoạn, ngắm cảnh phố phường đang rối loạn xe chạy qua lại, người hối hả chạy ngược xuôi trên đường. Đưa được “ phái đoàn” con em đến nhà anh chồng ở quận 10 . Thở phào nhẹ nhõm tôi vào nhà thấy vắng vẻ, ngạc nhiên hỏi mẹ chồng gia đình anh chị đâu thì bà thiểu não:
    - Con đến đây làm gì, gia đình anh con cũng vừa đi xuống…. nhà con tị nạn. Ở đây nghe đạn pháo rầm rầm sát bên tai sợ lắm con ơi...
    Tôi hoảng sợ:
   - Trời ơi, ở đây cũng bị pháo kích nhiều hả mẹ? Con sợ chỗ con ở nên xuống đây lánh nạn. Ai ngờ…
   - Anh con nghe người ta nói Việt Cộng tiến vào thủ đô Sài Gòn từ cửa ngõ Phú Lâm. Họ pháo kích phòng thủ mở đường nên sợ quá phải đi…
    Thế là chỉ vì sợ hãi mà người ta chạy quanh chạy quẩn. Biết nơi nào bình an khi miền Nam Việt Nam đang trong cơn hấp hối này? Tôi buồn bã nhìn mẹ chồng và hỏi sao bà còn ở đây một mình thì bà nói:
     - Mẹ ở lại trông nhà, loạn ly này đi hết thì thành nhà hoang không chủ sao.
    Mẹ chồng cũng như mẹ tôi đều yêu quý căn nhà của mình, cố bám lấy hi vọng nguy hiểm sẽ qua và các con sẽ trở về nhà. Thôi thì đã trót đến đây phải ở lại đây. Mẹ con, chị em tôi ngủ lại tại nhà với mẹ chồng tôi. Cả ngày rồi đến đêm vẫn nghe đạn pháo ầm ĩ  tôi trằn trọc không ngủ được và tự hỏi giờ này gia đình người anh chồng đang tạm trú lánh nạn ở nhà tôi có ngủ ngon giấc không?
    Sáng sớm tôi lại quyết định đưa “phái đoàn” nhà mình “hồi hương” về Hạnh Thông Tây, Gò Vấp. Có khi còn an toàn hơn khu ngã bảy quận 10 nếu cộng quân tấn công vào từ cửa ngõ Phú Lâm. Khó khăn lắm mới vẫy được một chiếc xe taxi, ông tài xế đòi giá bao nhiêu tôi cũng đồng ý miễn là được trở về nhà. Lũ trẻ lại được hốt lên xe, lần này xe 4 bánh “sang” hơn xe 3 bánh xích lô hôm qua, con và các em càng thích, chúng ríu rít tranh nhau lên xe. Xong chúng níu áo tôi đòi hỏi:
    - Mẹ ơi con đói bụng..
    - Chị ơi, mình ra phố ăn phở không?
    - Em muốn ăn xôi cơ.
    Tôi điên tiết gắt lên:
    - Mấy đứa có im đi không, sắp chết cả đám đây nè…
    Thấy mặt chúng nó xụ xuống tiu nghỉu, tôi không có thì giờ mà giải thích, chỉ…năn nỉ:
    - Mình về nhà rồi tính.
    Xe chạy ngang qua bến cảng Sài Gòn thì phải đi chậm lại vì cả một đám đông vẫn đang nhốn nháo ngơ ngác đứng đầy đường. Có lẽ họ đang tiếc con tàu đã rời bến. Nhiều thứ như xe cộ, đồ dùng đắt giá nằm ngổn ngang bừa bãi trên bờ, chủ nhân không thể mang theo lên tàu đành bỏ lại mà cũng chẳng thấy ai lấy đi. Giờ phút này ai cũng lo đi tìm nơi trú ẩn, lo di tản trốn chạy…
    Tội nghiệp ông tài xế taxi, thời khắc sống chết cuối cùng của tháng Tư mà ông còn chạy xe kiếm tiền hoặc là ông quá lạc quan hoặc là ông quá nghèo khổ vẫn cần tiền để sống. Giá mà ông ra lượm đại chiếc xe gắn máy vô chủ đẹp đẽ nào đó đang nằm trên bến tàu, đáng giá hơn biết bao lần cuốc xe chở gia đình tôi từ Ngã Bảy về Hạnh Thông Tây quận Gò Vấp.
    Tôi cũng ngẩn ngơ nhìn ra bến sông, nếu tôi đi ngang qua đây, ra đến bến tàu sớm hơn, tôi có dám bước xuống tàu không? Đi đâu về đâu và sẽ ra sao, sẽ xa cách người thân đến bao giờ? Đó là một quyết định khó khăn cho tất cả mọi người trong cơn hoảng loạn binh biến này. Khi về đến nhà thì gia đình ông anh chồng tị nạn đêm qua cũng… ân hận khi xuống nhà tôi vì suốt đêm nghe tiếng súng từ phía An Phú Đông vọng về. Thế là nhân tiện anh thuê xe taxi này để gia đình anh trở lại nơi tôi vừa trú ẩn. Một cuộc trao đổi ngoạn mục. Ông taxi… trúng mối.
    Đến trưa thì chồng tôi về. Anh nói quan quân ở trung tâm huấn luyện Quang Trung tan hàng rã đám rồi. Trên đường từ Quang Trung về nhà anh thấy những người lính đã cởi bỏ quân phục vứt đầy đường, những đám rác gồm quân dụng quân trang hay bất cứ giấy tờ vật liệu gì liên quan đến Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ đang bị đốt cháy cho thành tàn tro. Anh đã bơ vơ lạc lỏng với quân phục huấn luyện viên về tới nhà an toàn là may.
    Cả nhà đầy đủ, chỉ còn thiếu bố tôi. Chẳng biết giờ này ông làm công việc gì ở phủ thủ tướng  khi mà từ thủ tướng tới các thuộc cấp chức vị cao chắc chắn đều đã di tản. Hay bố bị Việt Cộng bắt vì tưởng ông là một nhân  vật cao cấp còn chậm chân ở lại? Cả nhà tôi cùng lo lắng đứng ngồi không yên, riêng tôi giàu tưởng tượng hay là Việt Cộng đã… thủ tiêu bố mất rồi? May quá đến chiều tối thì bố tôi lò dò về đến nhà, ông bình thản kể:
    - Mấy ngày ở phủ thủ tướng bố và các nhân viên còn lại ..…làm chủ nhân cả phủ thủ tướng vì các ông lớn đi hết rồi, bố tha hồ uống các loại rượu ngon đắt tiền mà thủ tướng từng dùng để tiếp khách.
    - Bố không sợ bị Việt Cộng tấn công sao?
   - Nếu sợ thì bố đã lên máy bay rời khỏi Việt Nam rồi. Máy bay trực thăng đáp xuống nóc phủ thủ tướng để đón mọi nhân viên, bố từ chối vì không thể đi một mình khi vợ con còn ở lại.
    Tôi đã hiểu tâm trạng bố, y như tâm trạng tôi sáng nay đi ngang qua bến tàu Sài Gòn. Giá có thể bước xuống tàu chắc tôi cũng không dám vì còn mẹ và các em, còn chồng kẹt trong trại chưa về.
    Thế là ngày 30 tháng tư 1975
    Ai may mắn đi thoát khỏi Việt Nam.
    Ai tan nát nhà cửa, chia lìa người thân.
    Ai còn ở lại.
    Gia đình tôi, không biết may hay rủi, không sứt mẻ gì, đầy đủ cả nhà ở lại Việt Nam để rồi sau đó …lãnh đủ, bắt đầu một cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa đầy bất công, gian nan vất vả, đắng cay tủi hờn suốt nhiều năm .
    Chồng đi tù cải tạo, bố bị bắt vì hàng xóm xấu bụng chỉ điểm ông là “mật vụ” cảnh sát viên đi làm toàn mặc thường phục. Hơn một tháng biệt tăm bố tôi được tha về có lẽ họ không điều tra được gì cả ngoài chức vụ cảnh sát viên bình thường. Mẹ tôi mất 1975 vì bệnh viện thiếu bác sĩ, thuốc men. Con tôi sau này đi học bị phân biệt lý lịch. Các em tôi đi vượt biên mấy lần thất bại và tù tội, có đứa mất công ăn việc làm, mất hộ khẩu sống vất vưởng và trốn chui trốn nhủi tiếp tục vượt biên vài lần nữa cho đến khi may mắn đến bến bờ tự do.
    Đã 49 năm qua. Đã 49 tháng Tư qua.
    Nhưng tôi không bao giờ quên những khoảnh khắc cuối tháng tư đau thương ấy. Tôi không bao giờ quên một khoảng đời đen tối ấy.

 

– Nguyễn Thị Thanh Dương.

(April, 2024)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.