Hôm nay,  

Nhật ký màu tím

09/05/202408:16:00(Xem: 2771)
Truyện

hoangquan

Hoài Niệm Xưa – Tranh Hoàng Thanh Tâm 



Sáu chị em chúng tôi vẫn chưa tưởng tượng được mình đã xa Ba Mạ, anh Lam và Kanh Kem, xa thật xa. Quê hương xa lắc, xa lơ bên kia bờ đại dương. Chừ mới thấm, thế nào là cây xa cội, nước xa nguồn. Anh chị Hải Điền và cu Nam đón chúng tôi ở phi trường Düsseldorf. Mừng mừng, tủi tủi.
    Trước khi qua Đức, chị em chúng tôi cẩn thận đặt đan những áo len dày. Nghe nói ở Đức rất lạnh, nhiều người “cố vấn” mua những mũ len trùm kín đầu phủ luôn cổ, có thể kéo lên che miệng, chỉ chừa hai con mắt để nhìn đời và một cái mũi để thở. Chúng tôi đến phi trường Đức vào một ngày tháng Giêng giữa đông lạnh giá. Rời phi cơ, mấy chị em áo mão cẩn thận, nhìn giống mấy cột nhà bọc len biết đi. Anh Hải ôm bầy em vào lòng. Rồi rất tế nhị, ghé tai chị Tâm nhắc nhỏ:
    – Mấy đứa lấy mũ len xuống đi.
    Chúng tôi không hiểu tại sao, nhưng lúc đó không thắc mắc. Về sau, chúng tôi mới biết, kiểu mũ đó giống thời trang... cướp nhà băng.
    Anh Chất thông dịch viên cùng với một nhân viên người Đức đưa chúng tôi về trại chuyển tiếp ở làng nhỏ tên Unna Massen. Ở cái làng bé tí tẹo này, lần đầu chúng tôi biết được siêu thị Coop. Vào đó, khứu giác nhận ra ngay hương xưa. Mùi của của bánh kẹo, xà phòng, áo quần... Tây Đức. Đó mùi hương đã làm chúng tôi ngất ngây khi nhận những thùng quà từ Tây Đức anh chị Hải gởi về vào thời khốn khó của những năm cuối thập niên bảy mươi.
    Giữa những thương nhớ ngút ngàn về gia đình ở Việt Nam, giữa những choáng ngợp của văn minh trời Âu, là rất nhiều ngỡ ngàng, ngờ nghệch về những tiện nghi xứ người. Anh Hải yên tâm khi biết có anh Chất với tư cách thông dịch viên, sẽ đảm nhận hoàn tất những thủ tục cần thiết để nhập trại, rồi sau đó về nhà mới. Dù vậy, trước khi ra về, anh Hải vẫn thảo một tờ sớ dài, ghi chú những điều cần thiết, cách xử thế của người văn minh trên xứ sở văn minh, và số điện thoại nhà cũng như số điện thoại hãng của anh.
    Cùng ở trại với chúng tôi lúc đó có chị Minh, con của chị-bé Cún và một người chị gái. Chị Minh đến trước chúng tôi vài ngày. Đương nhiên chị thành lão làng. Chị rất vui vẻ, hướng dẫn, giải thích cho chúng tôi một chút về phong thổ, địa lý của làng. Chúng tôi tìm ngay bưu điện để gởi những lá thư rất nặng ký về Việt Nam. Tôi đã viết từng đoạn từ trên máy bay, ở phi trường Charles de Gaulle và hàng ngày khi ở trại. Chị Minh dẫn chúng tôi ra chợ Coop gần trại. Chúng tôi ngẩn người, khi thấy hàng chục loại sô-cô-la bày biện muôn màu, muôn sắc. Lúc còn ở Việt Nam, chúng tôi nghĩ, chắc chỉ có chừng hai ba loại chocolate. Cho nên, chúng tôi viết thư cho anh Hải, xin anh loại sô-cô-la giống như anh gởi lần vừa rồi (?), vì loại này ăn rất ngon, bán cũng được giá.  Có lẽ ông anh không đoán được mấy cô em lẩn thẩn diễn tả cái gì. Tôi tưởng tượng giấc mơ ngọt ngào của mình sẽ thành sự thật: sẽ ngủ giữa sô-cô-la, để khi vừa mở mắt, được thưởng thức ngay hương vị tuyệt vời của sô-cô-la tan trong miệng. Chúng tôi mua nho tím, mà bao năm ở Việt Nam chúng tôi vẫn nhìn “đắm đuối” trong phim ảnh. Chúng tôi mua gà về luộc, chấm muối tiêu. Chúng tôi phát giác, gà ở Đức mềm hơn... bún. Sau này, chúng tôi mới biết, mua nhầm loại gà non để nướng. Chúng tôi lại hầm lâu, như hầm mấy con gà đá... thất trận, thì còn gì là gà. Anh Hải chuẩn bị cho một ít tiền xu, để chúng tôi gọi điện thoại khi cần. Chị Minh bảo tụi tôi, đi chợ có đồng 1 Đức mã nên giữ lại, để gọi điện thoại, nếu muốn nói chuyện lâu.
    Chiều chiều, mấy chị em kéo nhau ra phòng điện thoại công cộng. Dự định thay phiên nhau nói chuyện, nên chúng tôi quyết định dùng đồng 1 Đức mã để gọi. Anh Hải đã hướng dẫn cụ thể: bỏ đồng tiền vào, quay số 020..., chờ nghe tín hiệu đường dây đã được nối... Chúng tôi vui mừng khi nghe anh chị nói chuyện. Thằng nhóc con cũng được mẹ nhắc cho bập bẹ mấy tiếng. Thỉnh thoảng, có vài trục trặc kỹ thuật nho nhỏ. Có lần, khi quay số xong, tôi nghe một tràng tiếng Đức nói lăng lăng, líu líu. Quýnh quáng, tôi lập cập một câu anh Hải đã dạy để phòng thân:
    – Sprechen Sie bitte langsamer. Xin cô nói chậm một chút.
    Bên kia, giọng nói vẫn không giảm tốc độ. Tôi vẫn run, ráng lấy hết sức tàn lập lại, giọng cố to và rõ hơn:
    – Sprechen Sie bitte langsamer.
   Người đầu dây bên kia vẫn không một chút nhân nhượng, cứ đều đều giọng. Tôi không còn chước nào khác, bèn bỏ cuộc. Gác ống điện thoại lên, tim đập thình thịch, tôi phóng như bay ra khỏi phòng điện thoại, như sợ người bên kia có thể qua điện thoại bắt gặp tôi quấy rầy họ. Về sau, tôi mới biết là mình đã quay nhầm số, và đã đối thoại... với một cái máy phát ngôn tự động. Hèn chi, tôi oán, người bên máy sao mà tàn nhẫn không nghe lời... nguyện cầu của tôi. Mấy lần chúng tôi gọi về anh Hải, có lẽ anh chị đi công chuyện nên không ai nhấc máy. Thế là chúng tôi đành mất tiền, mà không nói chuyện được. Chúng tôi tiếc ngẩn ngơ. Một hôm, chị Tâm và tôi đang ở trong phòng điện thoại, hai chị em cẩn thận quay số. Điện thoại reng thật lâu, chẳng ai nhấc. Xui quá, lại mất tiền nữa rồi. Hai chị em ráng chờ thêm một tí nữa. Không có ai ở nhà cả. Buồn 5 phút. Hai chị em thất vọng, gác ống điện thoại, bước ra. Ngoài cửa có một thanh niên Á châu đang đứng chờ. Nghe hai chị em nói chuyện với nhau, anh ta hỏi:
    – Xin lỗi, mấy cô mới đến trại ở đây hả?
    – Vâng. Chị Tâm trả lời. Anh cũng ở trại này?
    – Ồ không. Tôi qua hơn một năm rồi. Tôi đã ra nhà riêng. Tôi là Tùng.
    – Tôi là Tâm, đây là Thúy, em của tôi. Chúng tôi đến đây hơn một tuần rồi.
    – Tôi ở gần đây. Nếu mấy cô không ngại, tôi sẽ ghé ngang trại. Tôi qua đây trước.
Nếu có biết gì hơn chút xíu, thì trao đổi thông tin. Chứ ai chẳng bỡ ngỡ thuở ban đầu.
    Chiều tối đó, anh Tùng ghé lại. Anh đưa cho chúng tôi đồng 1 Đức mã. Nói, chúng tôi để quên trong máy điện thoại. Lúc đó chúng tôi mới vỡ lẽ. Mình đã mấy lần mất tiền, vì chưa biết văn minh xứ người. Đã dốt không biết, lại trách cái điện thoại bất nhân, cướp của người nghèo như chúng tôi. Sau đó, chiều chiều anh Tùng hay ghé lại. Anh nói chuyện với chị Tâm, chị Thành. Tôi bận coi phim hoạt họa Tom und Jerry với Hiền và Thạch Duẫn. Tụi tôi mê mẩn theo dõi con chuột Jerry tinh quái bày trò gạt con mèo Tom trong điệu nhạc... Vielen Dank, für die Blumen, vielen Dank, viel lieb von Dir... Sau này tôi biết là bản nhạc phim này do Udo Jürgens hát, một ca sĩ đã đoạt giải Eurovision Song Contest với nhạc phẩm Merci Chérie. Ở Việt Nam, có thời Jo Marcel nổi như cồn với bản nhạc dịch: Cám ơn người yêu dấu. Thật ra, lúc đó Udo Jürgens đại diện nước Áo đi thi.  Bài hát có tựa đề tiếng Pháp, nhưng lời viết bằng tiếng Đức. Thuở xưa chúng tôi cứ tấm tắc khen bản nhạc Pháp nghe hay chết người. Lời Việt du dương lắm... Này em, lặng nghe lời anh, anh xin nói cám ơn em.
    Hơn tháng sau, anh Chất hộ tống sáu chị em chúng tôi về căn nhà chính phủ Đức cấp cho mấy chị em ở Duisburg, đường Duisburgerstr. 149 A. Sở xã hội địa phương ngỡ sáu người là hai vợ chồng đi cùng bốn đứa con. Bởi vậy, chúng tôi nhận được căn hộ với phòng ngủ có giường đôi cho hai vợ chồng và phòng lớn có hai giường tầng cho bốn đứa con. Những tối lạnh quá sáu chị em cùng nhau chen chúc trong cái giường đôi dành cho vợ chồng. Ngôi nhà nằm ở tầng một của một tòa nhà có 3 tầng. Tầng dưới là một boutique bán áo quần phụ nữ. Tầng trên là một gia đình người Ả Rập. Bên cạnh là một hộp đêm với tên Klein Paris, có hình tháp Eiffel, chớp chớp xanh đỏ suốt đêm. Con đường Duisburgerstr. là trục lộ chính dẫn về trung tâm thành phố, xe cộ nườm nượp, có cả xe điện. Nhà gần ngã tư, đường không tráng nhựa, mà là loại đá xanh xếp sát nhau. Anh Hải thấy khá ồn. Nhưng đối với chúng tôi, xem ra rất yên tĩnh, khi so với Sài Gòn, so cổng xe lửa số 6, gần nơi ngôi nhà số 533/50 Nguyễn Huỳnh Đức của chúng tôi. Từ phòng ngủ lớn, tôi thấy một nhà thờ với vuông sân nhỏ, rất dễ thương. Nhà bếp ngó xuống một sân thượng, để phơi áo quần và nướng thịt vào mùa hè. Chúng tôi vui sướng, suy nghĩ xếp đặt nhà cửa. Anh Hải sợ nhà hơi lạnh, vì chỉ có một lò sưởi than trong phòng khách. Nhưng tụi tôi không nề hà gì cả. Những háo hức trong cuộc sống mới rộn ràng quá. Ban ngày chúng tôi quây quần trong phòng khách, quanh lò sưởi than. Trời đông băng giá, áo quần phơi ngoài sân đông đá cứng ngắc. Lò sưởi có thêm chức năng sấy áo quần. Lò sưởi này đã nướng mấy cái quần jeans của tụi tôi. Rõ nghèo lại gặp cái eo. Tối đi ngủ, mấy chị em rúc vào giường lớn, đầy đủ áo đơn, áo kép, quần trong, quần ngoài, thiếu đường đội cả nón len mà ngủ. Trùm mền rồi, mới phát giác ra mùi cá chiên ngạt ngào trong không gian. Phải rồi, hồi chiều khi chiên cá, mấy chị em cũng bộ cánh này. Nhưng bây giờ không lẽ ra thay áo quần. Thôi, đành ngủ hôi, mà ấm, còn hơn là thơm, mà lạnh.
    Tôi đều đặn viết thư về Ba Mạ, anh Lam và Kanh Kem và một lô bạn bè. Tôi vẫn siêng năng tự học tiếng Đức, chờ ngày đi dự lớp Đức ngữ. Tôi vẫn dành thì giờ tập đàn. Tôi chưa tập thêm bài mới, chỉ ôn lại những bài cũ: My Way, Lágrima, Menuet No 1. Anh Hải có đem cho một radio. Dặn mấy chị em cứ để radio suốt ngày. Dù không hiểu nhưng tập nghe cho quen tai.
    Anh Hải bắt đầu xét sơ yếu lý lịch của mấy ông bạn còn lẻ bóng của anh. Anh kể, khi nghe tin anh bảo lãnh 6 đứa em, trong đó có 4 cô em gái, đám bạn tài trai của anh cứ một hai đòi làm em của anh. Thủ tục xuất cảnh lâu quá. Thế là các anh bạn đành gạt lệ sang ngang, làm con rể của dân Âu châu. Sau cùng, anh Hải có dẫn đến một ông bạn, đương nhiên là còn độc thân (nhưng không biết có vui tính không?). Ông rất giỏi, là bác sĩ trưởng ở một bịnh viện. Anh Hải khen ổng rất thiệt thà. Mấy chị em tôi xác nhận điều đó là đúng. Ông đến chơi mấy tiếng đồng hồ, nhưng cả nhà không thể biết được ông nói giọng bắc, trung hoặc nam. Chiều cao khiêm nhường và nhan sắc trung bình của ông chẳng làm chúng tôi ngại. Có điều, tụi tôi không cách gì đoán được, sau cặp kiếng dày cộm, mắt của ông hướng về ai. Đề tài ông bác sĩ mau chóng đi vào quên lãng. Chịu thôi, tôi chẳng nhớ ông ta tên gì. Mấy chị em đành phải chờ người tài trai. Anh Hải cứ nỗi lo canh cánh bên lòng. Bốn cô em gái sàn sàn, như... kho mìn nổ chậm.
    Chị Tâm nói tôi viết thư báo anh Tùng về địa chỉ mới của mấy chị em. Anh Tùng trả lời thư, sẽ thu xếp vào cuối tuần, đến tụi tôi chơi cho biết nhà. Anh đến, mấy chị em nấu nướng đãi khách rất xôm. Món bún bò, chỉ có mấy cái móng heo, xào chút bột cà chua, chẳng sả ớt gì ráo. Đến nước mắm cũng không. Bún bằng sợi spaghetti. Vậy mà, anh Tùng ăn cứ khen rối rít. Anh Tùng hỏi tôi thích nghe nhạc Việt Nam không. Tôi mắt sáng rỡ, nhưng không dám hét toáng lên rằng, tôi thích vô cùng, mà chỉ chừng mực: “Dạ có.” Rồi tôi quên bẵng đi. Mấy tuần sau, anh Tùng lại đến chơi. Anh mang theo một máy cassette nhỏ và cuộn băng: Tình Khúc Ngô Thụy Miên. Cả nhà vui mừng. Máy cassette làm việc gần như suốt ngày. Sáng thì... Mắt biếc năm xưa nay đâu. Chiều thì...  Tóc em anh sẽ gọi là mây. Trời mưa thì... Mưa tôi chả về bong bóng vỡ đầy tay... Trời nắng thì... Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát... Nhưng tôi vẫn một niềm bồi hồi khó tả khi nghe... Mưa đã rơi và nắng đã phai trên cuộc tình thơ ngây ngày nào… Chuyện ngày xưa đã thành chuyện kể, sao trong tôi vẫn còn lãng đãng những ngày vui của năm cuối ở trung học.
    Sinh nhật của Hiền và tôi cách nhau hai ngày. Chị Tâm nói, sẽ tổ chức sinh nhật cho hai chị em. Tức là 6 chị em sẽ nấu nướng gì đó. Mua thêm ổ bánh đông lạnh, cắm thêm mấy cây đèn cầy. Chị Tâm đề nghị mời anh Tùng. Tôi lại viết thư. Chúng tôi đã đặt mua điện thoại, nhưng còn phải chờ. Cho nên, không biết là khách có đến được không. Không quan trọng, mấy chị em với nhau, vui quá trời rồi. Chị Thành “chơi sang”, ra chợ trời mua hoa hồng, trổ tài cắm hoa. Món quà sinh nhật cả nhà cho hai chị em là cái cân, nhất cử... lục tiện. Đó là ưu tư của chị Tâm. Mặc dù 6 chị em vẫn còn là hội viên hội người gầy yêu nước, chị Tâm bảo: “Phải có biện pháp kiểm soát kịp thời.”
    Tôi bấm bụng bỏ cả gia tài, mua tặng cho Hiền tập nhạc của J. S. Bach: Ausgewählte Stücke für Gitarre (nghĩ rằng, đằng nào hai chị em sẽ xài chung). Tôi còn cả gan ghi lời chúc, rằng có ngày sẽ xách đàn cho ông Behrend. Anh Tùng đến, mang theo máy chụp hình. Anh tặng cho hai đứa hai món quà thật đẹp. Tôi không biết Hiền có thực sự thích món quà của Hiền không. Chớ tôi, vừa thấy món quà, đã thấy... ngã lòng... vào món quà. Một cuốn sổ nhật ký màu tím hoa cà. Hình như tôi chưa thấy hoa cà tím thật như thế nào. Màu tím của cuốn sổ dễ thương kinh khủng. Hình bìa có một cô bé mặt áo đầm, nhìn nghiêng, không rõ mặt. Bên dưới là hàng chữ: Fancy Flower... As I was walking up the garden. I met a little fairy. Fancy Flower... Bên hông cuốn sổ có một cái khóa. Tha hồ ghi chép những điều bí mật, mà không sợ những con mắt trần gian. Tôi đã được nhiều món quà rất hợp ý tôi. Nhưng cuốn nhật ký màu tím này đã mang đến cho tôi niềm vui vô kể... Tôi băn khoăn mãi, không biết mình đã đủ lời cám ơn đến người tặng chưa. Tôi nắn nót trên trang đầu của cuốn nhật ký với những lời chúc cho chính mình: “Hai mươi hai tuổi...”
    Tôi vẫn đều đặn trải dài những suy tư của mình trong nhật ký màu tím. Luôn là những thương nhớ đến gia đình xa lắc xa lơ. Tôi buồn rầu, chưa nhận được giấy mời đi học Đức ngữ. Tôi không vui, thấy mình không tập trung tập đàn. Tôi giận mình, đã không làm đúng theo chương trình học Đức ngữ đã tự đặt ra cho mình. Tôi trách mình, có lúc lớn tiếng với em út, hờn dỗi các chị. Đâu đó là những băn khoăn của một ngày mai rất đỗi mơ hồ.
    Anh Tùng thỉnh thoảng gởi vài dòng. Mỗi thư, anh kèm vài tấm hình anh chụp cho cả nhà hôm sinh nhật. Anh chụp hình rất đẹp. Tôi thay mặt cả nhà viết thư cám ơn, khen hình chụp đẹp. Anh gởi thêm cho mấy tấm, với lời phụ đề rằng không phải người chụp hình giỏi, mà do người trong hình đẹp. Khéo nói dữ, nghe êm tai ghê. Anh nói, tháng Tư là tháng hoa của Hòa Lan. Nếu mấy chị em thích xem hoa, anh sẽ đến đưa đi chơi. Mấy chị em rộn ràng hẳn lên. Chị Tâm nhường các em, đành ở nhà. Suốt ngày thứ Sáu, mấy chị em bận túi bụi, chuẩn bị thức ăn mang theo dọc đường. Chị Thành trổ tài món trứng tráng cuốn thịt bằm, một loại cao lương, mỹ vị. Nhưng vì sắp sửa xuất ngoại, thủ quỹ cũng vui lòng xuất ngân.
    Sáng thứ bảy, anh Tùng đến. Vì tôi là người liên lạc với anh Tùng, chị Thành phân công tôi ngồi trước, nói chuyện với anh Tùng. Thật ra, tôi chẳng cần phải nói gì. Trên đường đi, anh giới thiệu phong này, cảnh nọ. Đối với chúng tôi, tất cả đều mới lạ. Ai nấy dỏng tai nghe, dương mắt nhìn.
     Gần đến biên giới, anh Tùng ghé lại thăm một người chị họ. Chị Bích không phải ở tuổi đôi mươi. Nhưng tôi không đoán được chị bao nhiêu tuổi. Chị không phải là nhan sắc diễm lệ, nhưng có duyên ngầm. Chị nói chuyện cởi mở, tự nhiên. Chị qua Đức đã vài ba năm. Chị thao thao về những kinh nghiệm của người đi trước. “Mấy em biết không? Xứ này đàn bà rất được quý trọng. Đàn ông Đức họ rất lịch sự. Họ chăm sóc, săn đón phụ nữ hết mình.”  Chị kéo dài giọng, đưa ra vài thí dụ điển hình tư cách hàng đầu của những người đàn ông Đức chị quen. Tôi thấy là lạ. Nhưng vẫn cứ dạ nhịp, cho chị khỏi cụt hứng. Sau cùng, chị xuống giọng ra vẻ đàn chị:
    – Mấy em mới qua, cứ thong thả chọn lựa! Đừng thấy ai vồn vã tốt bụng mà lật đật xiêu lòng.
    Chị liếc liếc qua, xem anh Tùng có theo dõi câu chuyện của chị hay không. Nếu anh biết, bà chị họ của anh có những lời răn bảo như vậy, chắc anh không ghé lại thăm, hoặc chờ hôm nào đi một mình mới ghé.
    Anh Tùng nói:
    – Mình đã qua khỏi biên giới Hoà Lan.
    Chúng tôi háo hức hướng mắt nhìn hai bên đường. Uả, cũng như bên Đức thôi, cũng những cánh đồng, vài ba ngôi nhà. Xem kìa, cối xay gió, đây là Hòa Lan, đây là Hòa Lan... 
    Những hình ảnh về hoa uất kim hương từ trong sách vở, phim ảnh đang là những cảnh thật trước mắt chúng tôi. Những bãi cỏ rộng ngút ngàn. Tiết tháng Tư mà trời thật đẹp. Sau này ở lâu tôi mới biết, tháng Tư thường thời tiết xấu nhất. Trong ngày có thể vừa có mưa, nắng, gió, tuyết… Người ta ví tính tình quạu cọ như thời tiết tháng Tư. Sau khi đi dạo ở một công viên ngắm hoa, nghía cảnh, anh Tùng đưa chúng tôi đến một chợ trời. Ngoài các sạp hoa tươi, rau cải, chúng tôi dừng rất lâu ở các sạp bán quà lưu niệm. Thấy gì cũng muốn mua, chị Thành làm thủ quỹ, phát cho mỗi đứa mấy đồng. Tôi không biết nên mua cặp guốc gỗ đặc biệt của người Hoà Lan, nho nhỏ làm xâu chìa khóa, rồi mua thêm mấy cành hoa uất kim hương bằng gỗ cho chị Tâm hay không. Hiền chỉ cái đèn kéo quân hình cối xay gió. Ừ, đẹp ghê, nhưng tiền mấy đứa cọng lại cũng chưa đủ. Hay là bộ khăn lau chén có hình bản đồ và các danh lam thắng cảnh Hòa Lan. Thôi, kiếm cái gì để trong phòng khách. Mấy chị em bàn bạc lui tới. Cuối cùng quyết định mua một cái hàn thử biểu hình cối xay gió cho chị Tâm. Sắp sửa rời chợ, Hiền phát giác ra một quầy bán chén bát hột dưa. Mấy chị em ngạc nhiên lắm. Thì ra, xứ này người ta cũng xài đồ Tàu. Ba chị em gái lại lẩm nhẩm tính toán. Anh Tùng kiên nhẫn đứng đợi. Sau cùng ba chị em đồng ý mua 2 cái chén hột dưa. Tính toán khéo thiệt, nhà sáu người, mua 2 chén ai ăn, ai nhịn?  Cả đám vui vẻ kéo nhau đi. Sắp đến giờ về rồi. Hiền được vinh dự xách túi chén. Cô nàng tung tăng quá, túi chén ủi vào mấy cột xi măng dọc bên dường. Cho nên, về đến Duisburg, đem chiến lợi phẩm trình làng, thấy bể mất một cái chén. Tiếc và cười cũng gần... đứt ruột.
    Gần Duisburg, xe bị hư. Tôi không biết xe bị hư gì. Thấy anh Tùng dừng lại bên đường, vào xin nước ở một nhà gần đó. Đến nhà, đã hơn 6 giờ chiều. Cả đám ào ào chạy lên. Ai cũng muốn gặp chị Tâm trước, để kể chuyện. Chị Tâm ra mở cửa:
    – Sao về trễ quá vậy? Anh Hải tới đây từ 4 giờ chiều. Anh lo lắng quá trời.
    – Dạ, tụi em trở về sớm. Nhưng xe bị hư giữa đường.
    Mấy chị em rón rén bước vô. Sau màn giới thiệu, anh Hải phỏng vấn anh Tùng. Chỉ có chị Tâm được ở phòng khách. Còn chị Thành, tôi và Hiền nhào vô bếp chuẩn bị cơm nước. Có lúc, anh Hải và anh Tùng cùng đi ra ngoài. Cơm nước xong, gần chín giờ tối. Anh Hải cẩn thận đưa anh Tùng ra cửa, rồi mới trở vô họp... tổ dân phố. Kể ra, mấy chị em biết bao nhiêu là trọng tội.
    – Tâm là chị lớn trong nhà. Giao 5 đứa em cho người ta, mà không biết rõ người ta là ai.
    – Dạ, Tùng cũng có đến đây chơi mấy lần. Thấy người hiền lành, tốt bụng.
    – Tâm cũng không biết rõ là người ta chở em mình đi đâu!
    – Đi Hòa Lan. Em nghe nói, không xa lắm. Có dịp, cho tụi nó đi cho biết.
    – Gấp gáp gì đâu. Từ từ anh chị sẽ đưa mấy đứa đi chơi. Trời ơi, lúc nãy khi anh xuống coi xe cho Tùng, anh hỡi ơi. Đã vậy, lại còn chở sáu.
    Tôi than thầm, anh Hải kỹ càng quá đó chứ. Có lẽ anh đi xa Việt Nam lâu quá, anh quên. Chứ hồi ở Quảng Ngãi, chiều chiều Ba vẫn chở bầy con đi sông Vệ ăn mì Quảng, hoặc ra sông Trà Khúc. Mà phải chở sáu đâu, chở bảy, chở tám lận.
    – May mắn là không có gì xảy ra. Xa lộ ở đây, xe chạy nhanh lắm. Xe cộ phải cho chắc ăn, chớ không thì... Anh Hải chép miệng. Mấy đứa từ nay về sau, có ai rủ đi chơi, phải cho anh biết trước, nghe chưa.
     Cả đám im thin thít. May, anh Hải không biết, suốt đoạn đường, Thạch ngồi đàng sau, cứ phải chồm ra trước, vịn chặt vai tôi, vì dây nịt an toàn đã bị hư, không gài được.
    – Trước mắt, mấy đứa lo học tiếng Đức. Chuyện đi chơi, ngày dài tháng rộng, không phải cứ ai rủ là đi chơi. Thanh niên Việt ở đây, lúc nào chẳng tử tế với mấy cô...
     Hên quá, anh Hải phải về, chấm dứt giờ công dân giáo dục. Chứ nếu còn thì giờ, ảnh phỏng vấn tiếp, anh Tùng đặc biệt quan tâm đến ai. Chắc người này ngó người kia, biết trả lời sao đây...
     Tôi thay mặt cả nhà viết cho anh Tùng vài hàng, cám ơn chuyến đi chơi lý thú (dù bị anh Hải la cho một trận) và hy vọng hôm đó anh về nhà bình an vô sự.
     Sau đó vài tuần, anh Đạt, một người bà con xa, bắn đại bác ba ngày chưa tới, hẹn gặp chúng tôi ở Bonn, khi chúng tôi đi biểu tình vào ngày 30.04. Trước đó, anh Đạt đến Duisburg thăm chúng tôi, và cũng để nhận quà từ Việt Nam, gia đình anh gởi nhờ chúng tôi mang qua Đức. Anh Đạt hẹn, sẽ dẫn chúng tôi về trường anh ở Wolfhagen. Ở đó, chúng tôi vào học lớp tiếng Đức với tư cách dự thính. Nghe được đi học, tôi mừng quá trời. Thế là mấy chị em họp hội nghị… Diên Hồng. Cuối cùng, cả nhà đồng ý, chọn chị Thành và tôi, gởi lên “tỉnh” học. Lý do là tôi ham học. Anh Đạt có vẻ như chú ý đến tôi. Vậy, gởi chị Thành theo... giữ chùa, cho chắc ăn. Trước ngày đi, chị Thành và tôi được chị Tâm cho phép lên phố Neu Hamborn sắm sửa hành trang để lên tỉnh. Chị Thành tậu một quần nhung sọc màu đỏ sậm. Tôi lựa cái quần ca rô xanh lợt, có hiệu Paddock. Mặc với cái áo thun sọc ngang xanh trắng. Người tôi lâng lâng, tưởng như mình thành người mẫu. Sau này, nhìn lại mình trong mấy tấm hình, thấy bộ vó mình là một sự kết hợp hài hòa giữa... Papillon    – Người Tù Khổ Sai và danh hề Charlot trong phim Thời Đại Tân Kỳ.
     Lên trường anh Đạt tôi vui vô kể. Dù học dự thính, tôi tiến bộ rất nhanh. Trường anh Đạt, 95% là nam sinh. Bởi vậy, hai chị em tôi có bao nhiêu chàng nộp đơn xin làm... sư phụ.
     Tôi gọi điện thoại về nhà, báo tin cho biết chúng tôi đến nơi bình an và rất vui. Hiền kể, anh Tùng gọi, nói sẽ lên chơi vào cuối tuần. Tôi dặn Hiền, nhớ gởi trả anh Tùng máy cassette và băng nhạc. Tôi định sẽ viết thư cho anh. Nhưng nhịp sống ở Wolfhagen rộn ràng quá, tôi quên khuấy đi. Hiền tường thuật, anh Tùng đến, thiếu bóng hai chị, nên buồn hiu. Hiền đưa máy và băng gởi trả, anh nhận, ỉu xìu ra về. Hiền nói, ở nhà vắng vẻ. Vì thiếu hai chị và thiếu... nhạc Ngô Thụy Miên. Cuối cùng, tôi viết được vài chữ trên một tấm bưu thiếp của Wolfhagen gởi anh Tùng. Không nghe anh Tùng trả lời.
     Lớp tôi dự thính chỉ có hai chị em tôi là người Việt Nam. Anh Đạt giới thiệu với thầy cô người Đức, rằng tụi tôi là “meine Schwestern”, em của anh. Chẳng ai buồn thắc mắc tại sao anh em khác họ. Thỉnh thoảng, các anh khác dụ hai chị em cúp cua. Ai tới, cũng nói với thầy cô, là cho gặp “meine Schwestern”, hai cô em. Sau nhiều lần như vậy, ông thầy Gerd H. hỏi móc họng, bộ cha mẹ hai cô có cả trăm đứa con trai sao. Tôi tiếc, tiếng Đức mình chưa đủ, để nói với ổng rằng, ít ra cũng 50 chục đứa con trai theo cha lên núi...
     Tôi vẫn luôn có cuốn nhật ký màu tím bên mình. Nào là buổi picnic với lớp ở Twistersee. Nào là đi xem xi nê lần đầu ở Đức, phim gián điệp Die wilden Gänse kommen (The Wild Geese). Tiếng Đức võ vẽ vài chữ, cho nên gần như điếc. Khi anh Hùng thông báo về đêm disco hằng tuần của trường, hai chị em suy nghĩ lung lắm. Thứ nhất, trong mớ áo quần Hồng Thập Tự tặng, không có bộ nào thích hợp cho hai “vũ công” trong buổi dạ vũ. Thứ hai, hai chị em có biết nhảy nhót gì đâu. Anh Trung trấn an:
    – Tới chơi cho vui. Nhảy như nhảy cò cò, chớ có gì đâu.
    Ban đầu, thấy Phấn hoa khôi yểu điệu tango trong Lạnh lùng, hoặc Nga nhịp nhàng trong Black Magic Woman, Hường lả lướt trong Woman in Love  hai chị em ngồi chết dí một góc. Mãi khi có bản Band on the Run, anh Hùng chạy lại kéo hai chị em ra sân, nhảy... cao, nhảy dài. Niềm vui đó cũng chiếm hết cả trang trong cuốn nhật ký màu tím của tôi.
     Những ngày tháng tiếp đó luôn là những rộn ràng. Tôi không thể tập đàn nữa, vì khi xuống Wolfhagen không mang đàn theo. Tôi nhớ đàn. Kể cho anh Đạt nghe niềm tương tư của mình. Anh Đạt mượn đàn của Thu cho tôi chơi. Nhưng cây đàn đó không phải là tây ban cầm cho nhạc cổ điển, nên tôi đem trả lại. Thu yêu cầu (không chừng khách sáo, mà tôi tưởng thiệt). Tôi bèn ôm đàn, hát một bài không giống ai: Love Me with All Your Heart.                       
     Năm 1982, lần đầu tiên tôi biết đến Giải Túc Cầu Thế Giới, World Cup. Không khí hào hứng, sôi nổi không thua gì xem trong sân vận động. Cả trường nội trú chỉ có một cái ti vi. Học trò trong trường đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Phe ta Việt Nam chuộng môn đá banh. Các nhóm sắc dân khác như Ba Lan, Kurden, Iraq chỉ thích coi phim Dallas, một bộ phim nhiều tập của Mỹ trình chiếu vào mỗi tối thứ Ba hàng tuần. Nếu tối nào trùng với thời gian thi đấu quốc tế, là có màn cãi cọ xô đẩy bàn ghế dành đài để coi. Học trò Việt khá đông, các anh lại làm ra vẻ ta đây có võ. Các dân khác rét, đành nhường ti vi. Thế là phe ta chiếm trọn phòng ti vi, coi đá banh. Hò hét cổ võ, đặt cược, vui ra phết. Hai chị em tôi ngơ ngáo. Không biết khi trái banh lọt lưới, ghi điểm cho đội nào. Cho dù đôi lần chúng tôi vỗ tay trật lất, mấy anh vẫn ưu ái kéo chị em tôi vào coi chung cho không khí cá độ có vẻ... lãng mạn.
    Thời đó, cầu thủ nổi tiếng của Đức là Rummenigge. Các hãng ti vi mướn cầu thủ thượng hạng quảng cáo hàng hóa. Tôi thấy các tiệm bán máy móc điện tử, trưng bày nhiều ti    – vi có ông cầu thủ nổi tiếng này dưới có hàng chữ Telefunken. Khi anh bạn chỉ ông cầu thủ hỏi biết ổng không, Tôi ngon lành, ta đây rành rẽ: “Ông Telefunken chứ ai!” May, lúc đó anh bạn đang “cua” tôi, anh không dám lăn ra cười. Tôi đem râu ông cầu thủ, cắm vào cằm hiệu hãng ti vi. 
    Tôi nhận được giấy mời đi học ở Heilbronn, miền nam Đức. Xa Wolfhagen, như xa miền yên vui. Tôi vẫn luôn có cuốn nhật ký màu tím trong hành trang của mình. Rời Heilbronn, cuốn nhật ký màu tím đã kín phân nửa. Sinh nhật tôi, Hiền tặng một cuốn nhật ký màu lá non, với hình thiếu nữ ngồi mơ mộng trên bãi cỏ xanh, điểm hoa vàng. Tôi bước sang tập nhật ký mới.
    Xong lớp Đức ngữ, tôi về lại Duisburg. Trong thời gian chờ đi học tiếp, tôi tự tặng cho mình vài cuốn nhật ký nhiều màu khác nhau. Nhưng dường như chưa có cuốn nào làm tôi hài lòng như cuốn nhật ký màu tím.
    Cuốn nhật ký màu lá non dở dang. Tôi chuyển qua cuốn màu xanh dương ca rô, như một cuốn sổ để ghi chép chuyện nhà, bếp núc. Cùng một lúc, tôi ghi ghi chép chép vào nhiều cuốn nhật ký nhiều màu, nhiều cỡ khác nhau. Mãi đến năm 1997, cuốn nhật ký màu tím mới đến trang cuối. Cuốn nhật ký màu tím trải dài 15 năm. Có vài năm, tôi chỉ ngoằn ngoèo hai ba chữ, mà lại nhạt nhòe. Những năm đó, tôi viết thư nhiều hơn... khóc trong nhật ký.
     Đọc lại những hàng chữ trong cuốn nhật ký màu tím, tôi thấy mình ngày xưa như rất giòn cười, tươi khóc. Âm vực lúc bổng, lúc trầm trong dòng nhạc đời của tôi ngày xưa, rộng hơn bây giờ rất nhiều. Nhạc điệu của đời tôi càng lúc càng đều đặn. Nốt thật trầm ít đi. Những nốt cao vút không còn nữa. Tôi trở thành một bản nhạc rất dễ hát, không hay, không dở, một giọng đều đều. Âu, đó cũng là hạnh phúc, cho mọi người quanh tôi và cho tôi.
     Nếu tình cờ tôi gặp lại anh Tùng, tôi sẽ nói lời cám ơn lần nữa. Rằng món quà anh tặng tôi nhân sinh nhật đầu tiên trên xứ người đã mang lại niềm vui cho tôi... rất lâu. 


-- Hoàng Quân

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.