Hôm nay,  

Song ngữ: Tiếng sáo tiền kiếp // The sound of a flute from a past life

02/01/202522:51:00(Xem: 2336)
blank  

TIẾNG SÁO TIỀN KIẾP

TRẦN DUY

 Translated by Phan Tấn Hải

Edited by Paul Clifford & Hoàng Hưng

  

Ven sườn núi Mân có con sông Ô Nan. Dọc bãi sông Ô Nan là thôn Hoàng. Thôn Hoàng có một người thổi sáo. Người ấy còn trẻ, cả xóm biết chàng từ lâu, nhưng không rõ tên, chỉ quen gọi là người thổi sáo thôn Hoàng.

 Thú vật của thôn Hoàng cũng quen với tiếng sáo. Đêm đêm chàng vẫn mang sáo ra bến sông thổi. Nước chảy xoắn lại ở chân cầu; Tiếng sáo như cầm cả nước, và những con thuyền khách trôi bềnh bồng trên dòng sông.

 Đời sống cơ cực của thôn Hoàng đẹp được phần nào, nhờ tiếng sáo của chàng.

 Có một hôm, một người lạ mặt đến chơi thôn Hoàng, và tìm đến lều cỏ của người thổi sáo. Vai mang một chiếc đẫy vải sô, bên ngoài buộc lủng lẳng một chiếc sáo trúc, đầu sáo rủ xuống hai hoa tua bằng tơ vàng và hai viên hổ phách, màu đỏ như hai giọt máu tươi. Hai người nhìn chiếc sáo, chào nhau như người quen biết cũ. Đêm hôm ấy hai người đối chuyện nhau. Quá giờ Tý, chuyển sang thổi sáo. Người khách mời người thổi sáo thôn Hoàng. Hết khúc này sang khúc khác, sao hết giờ đổi ngôi, tiếng sáo vẫn còn. Sương rơi lộp bộp trên lá, người nghe có cảm giác tiếng sáo gặp khí lạnh của đêm, đọng lại thành châu và ứa ra từng giọt một. Dứt tiếng sáo hai người cùng im lặng, ngồi nghe dư âm của tiếng sáo. Bỗng người khách lạ cất tiếng nói tư lự:

 “Chỉ tiếc, không thể đáp lại món nợ này.”

 Người thổi sáo thôn Hoàng khiêm tốn:

 “E rằng tài thấp không làm vui được lòng người quý đêm nay chăng?”

 Người khách cười:

 “Tiếng sáo của nhân thế mà kỳ ảo đến thế là quá rồi. Tôi chỉ tiếc không thành con dế, ngọn cỏ sống bên cạnh lều này để suốt đời được nghe tiếng sáo.”

 Người thôn Hoàng lễ phép:

 “Đa tạ.”

 Khách thở dài:

 “Tôi xin chịu thất lễ mà không dám hoạ lại. Vì thổi vào sáo của người, bạc đầu tôi cũng không thể thổi bằng người được, còn chiếc sáo của tôi…”

 Người khách im lặng, mân mê chiếc sáo buộc vào tay đẫy. Người thổi sáo thôn Hoàng xin phép được xem. Người khách ngập ngừng đưa, hai tay vẫn giữ hai đầu sáo. Người thôn Hoàng ngạc nhiên:

 “Chiếc sáo quý quá thật rồi!”

 Khách lắc đầu thở dài:

 “Chỉ sợ làm khổ nhau suốt đời thôi.”

 Người thôn Hoàng như hờn dỗi trả lại chiếc sáo, im lặng nhìn trời. Trời sâu thăm thắm, lòng chàng như có lửa đốt cháy.

 Xưa nay sống ăn quả cây, uống nước suối, ở lều cỏ, ngủ ổ rơm, người nghệ sĩ thôn Hoàng không bị giày vò vì một hoài bão nào, chưa khổ vì một ước mơ dù lớn dù nhỏ.

 Chỉ đêm nay chàng khổ, vì đời chàng đã có một khát vọng đó là chiếc sáo của người khách lạ…

 Sao rua đã ngả về nam. Vạc đã bắt đầu bay ngược sông Ô Nan. Thuyền chài thức dậy đã lên lửa, tiếng gõ vào mạn thuyền vọng qua núi Mâu và vang về thôn Hoàng! Sương vẫn còn rơi: tiếng sáo lúc đầu hôm như chưa tan hết, còn giọt lại mấy giọt sau cùng…

 … Bỗng người khách lạ đứng dậy, đưa sáo lên thổi… Tiếng sáo ngân từ trong lòng trúc, nghe rất nhỏ… Tiếng sáo vút lên, dồn dập. Tiếng sáo càng như thắt lòng, não nuột; người thổi sáo thôn Hoàng rùng mình, tiếng sáo như lưỡi dao mỏng lùa vào xương tuỷ, lóc từng thớ gân một, chàng rợn người vì cảm xúc, lạnh buốt cả mười đầu ngón tay, sởn da gà, mồ hôi ở trán vã ra, chảy từng giọt.

 Và tiếng sáo dừng bặt. Im lặng. Hình như sau tiếng sáo, cây cỏ, đá hoa đều tan đi cả, chỉ còn lại một thứ: đó là một nỗi buồn. Cái buồn thấm thía, từ đời kiếp nào kéo về.

 Người khách thổi xong, gục đầu xuống chiếc sáo khóc nức nở. Người thôn Hoàng cũng thấy tiếng khóc ấy bắt đầu ở tâm hồn mình.

 Khách cất sáo vào đẫy phân trần:

 “Cuộc vui đêm nay vì tiếng sáo hoá thành buồn vạn thuở.”

 Người thổi sáo thôn Hoàng nằn nì xin kết bạn, cùng ra đi giang hồ.

 Khách hỏi:

 “Chủ nhân đi đâu?”

 “Ta đi theo tiếng sáo.”

 Khách đáp:

 “Tiếng là khí, tan trong gió, khách theo thế nào được!”

 Chủ nhân trả lời:

 “Ta sẽ tan trong gió, quyện vào khí để theo tiếng sáo.”

 Khách cười:

 “Ta chưa hề gặp người nào yêu sáo như chủ nhân.”

 Chủ nhân đáp:

 “Ta chưa hề gặp người nào thổi sáo như thần sầu, quỷ khóc như khách.”

 Khách thở dài:

 “Sáo hay không phải tại người thổi…”

 và kể:

 “Tổ phụ ta chết đi để lại chiếc sáo này. Tổ phụ ta xưa vốn là người yêu sáo. Một đêm mưa gió một người khách xin ghé núp mưa. Người ấy và tổ phụ ta thức suốt đêm nói chuyện về sáo. Tổ phụ ta thổi sáo, người ấy đánh nhịp, tỏ ra là một người rất sành về sáo. Bất chợt người ấy hỏi:

 ‘Ông đã biết rừng Tĩnh Tước chưa?’

 Tổ phụ ta trả lời chưa; người ấy kể:

 ‘Tĩnh Tước là một khu rừng cách đây vài nghìn dặm. Hàng năm tiên xuống một lần lấy trúc về làm sáo cho Quảng Hạc. Tiếng sáo thổi vào trúc ấy… có thể lay hồn người chết, đời sống tiền kiếp cũng trở về, thổi vào bãi tha ma người chết cậy nắp áo quan trỗi dậy, tiếng khóc chôn chặt từ ngàn đời lại nức nở oà lên… thổi vào núi, đá cây cũng thành nước mắt…’

 Tổ phục ta thao thức suốt đêm… Chợt có tiếng sét lớn choàng tỉnh dậy… Người khách lạ đã đi rồi, bỏ quên lại chiếc quạt lá vả. Tổ phụ ta treo lên giá làm kỷ niệm. Một dạo trong thôn, về tiết xuân, bướm ở đâu kéo về lắm quá, muôn mầu, nhởn nhơ. Rừng và bãi cỏ như nở hoa… Hết mùa, bướm lại bay đi… Lúc tổ phụ ta nhìn lại giá, thì chiếc quạt lá vả cũng mất từ bao giờ.

 Từ hôm tổ phụ ta nghe câu chuyện sáo ấy, người trở nên âu sầu, bỏ ăn bỏ ngủ, đi lang thang khắp xóm, gặp ai cũng hỏi khu rừng Tĩnh Tước. Mọi người đều cười. Tổ phụ ta nói:

 ‘Khu rừng ấy cách đây vài nghìn dặm.’

 Vài nghìn dặm quanh đây là chỉ rừng lá han, lá đụng vào da thịt buốt đến tận óc, biết đâu là rừng Tĩnh Tước. Tổ phụ ta bỏ nhà bỏ cửa, ra đi. Đi hàng tuần trăng, hỏi những nhà cụ già sống hơn trăm tuổi nhân trung dài quá ngón tay, họ đều trả lời:

 ‘Lâu lắm từ lúc lão còn để chỏm trái đào, cũng có nghe xôn xao tên rừng Tĩnh Tước; ở thôn lão cũng có người say, uống xong hai ché rượu ra đi tìm rừng Tĩnh Tước. Đi từ dạo ấy đến nay chưa về…’

 Tổ phụ ta lại cứ đi. Tháng này qua tháng nọ, mùa này qua mùa khác, vẫn cứ đi. Một buổi chiều dừng lại ở một chiếc quán bơ vơ giữa đèo. Quán không có người. Một chốc trời mưa như trút; bỗng có tiếng đẩy cửa, quay lại thấy một người con gái, mặc áo lụa màu khói, đai áo màu thiên thanh, hai dải lụa thắt lưng bằng nhiễu trắng và hồ thuỷ. Đôi mắt lá răm. Tổ phụ ta thoang thoảng ngửi thấy một mùi hương kỳ lạ, không phải là mùi hoa, mùi cỏ. Kẻ sành chơi các loài hoa lan, hoa mộc, nếm các vị cỏ, cỏ ô, cỏ thạch bồ, hương nhu như tổ phụ ta, vẫn cho đó là một mùi hương kỳ lạ.

 Người con gái hiểu ý cười:

 ‘Hương rừng Tĩnh Tước đấy.’

 Tổ phụ ta nghe xong lặng điếng người, run lên, chiếc đẫy rơi lúc nào không biết.

 ‘Rừng Tĩnh Tước ở về phương nào?’

 Người con gái chỉ tay trước mặt, không nói.

 Trước mặt tổ phụ ta là một khu rừng trúc. Tổ phụ ta ngồi nhớ lại, lúc chiều đến chân đèo, tuyệt nhiên chẳng thấy chung quanh một khu rừng trúc nào, chỉ toàn bãi cỏ, bông lau.

 Người con gái hỏi:

 ‘Khách đến đây tìm trúc?’

 Tổ phụ ta lại hỏi:

 ‘Sao chủ quán biết?’

 Người con gái cười không trả lời. Một chốc nàng nói:

 ‘Người tục không nên thổi sáo trúc Tĩnh Tước.’

 Tổ phụ ta hỏi:

 ‘Cớ sao tiên lại thổi được?’

 Nàng cười:

 ‘Vì tiên không có tiền kiếp.’

 Tổ phụ ta lại hỏi:

 ‘Tiền kiếp là thế nào?’

 Người con gái chỉ tổ phụ ta mà cười:

 ‘Tiền kiếp là những giọt nước mắt trong người khách!’

 Nàng tiếp:

 ‘Tiếng sáo tuy có hay, nhưng hay gì mà lại sống những nghiệp chướng đã qua.’

 Đêm ấy tổ phụ ta không ngủ được, mới sáng tinh sương đã lội suối lần vào rừng trúc. Thân trúc thẳng đuột, cao chót vót. Cật trúc màu ngà, gân xanh màu ngọc thạch… và vẫn cái mùi hương ở chiếc quán phảng phất trong khu rừng.

 Tổ phụ ta đi mãi vẫn chưa gặp một người tiên nào đẵn trúc, chỉ nghe tiếng nói xôn xao ở đâu đâu, lúc gần, lúc hiện nghe như trên cao, lúc tưởng như cạnh mình, thỉnh thoảng lại một tiếng cười ngân lên, và vẫn cái mùi hương kỳ ảo quấn quýt quanh người. Bỗng gió bay, tạt tà áo của tổ phụ ta vướng vào một cành trúc, lúc ấy ở bụi trúc vang lên một chuỗi cười, tinh nghịch, tiếng cười không dứt được. Tổ phụ ta cuống lên đưa dao chặt cành trúc. Tiếng cười cứ như thế xa dần…

 Tổ phụ ta rùng mình… Phút chốc rừng trúc tan đi từ bao giờ, quanh mình chỉ một lớp sương dày đặc bao quanh, Tiếng nói cười lao xao văng vẳng trên cao nhỏ dần, và mùi hương cũng nhạt bớt. Chợt nhìn lại trong tay vẫn còn khư khư một cành trúc.

 Tổ phụ ta lần về chiếc quán thì chân đèo bát ngát, chỉ còn bãi cỏ và bông lau.

 Từ ngày được chiếc sáo ấy, đời sống và tâm tình tổ phụ ta thay đổi hẳn. Suốt tháng ngày không rời chiếc sáo. Tiếng sáo càng thổi người tổ phụ ta càng gầy rộc. Có lúc hai tay ôm chiếc sáo khóc hằng giờ. Cứ như thế, thổi xong là khóc, hết khóc lại thổi, ngày này qua ngày nọ, mùa này qua mùa khác, người tổ phụ ta héo hon dần. Suốt ngày không ăn uống, nhắm mật hoa, uống nước mưa cầm hơi, lúc tỉnh lại thổi sao. Tiếng sáo ngày càng sầu thảm lâm ly… Rồi một hôm tổ phụ ta từ trần.

 Lúc gần chết, lạnh lên quá rốn mới chịu rời chiếc sáo, chỉ trối lại một câu:

 ‘Đời ta oan trái vì tiếng sáo này. Cuộc đời mai hậu đừng nên thổi sáo này; Tiếng sáo tuy hay, nhưng hay gì mà lại sống lại những nghiệp chướng đã qua.’

 Chiếc sáo truyền từ đời này đến đời nọ, giữ nó như một vật gia bảo oan gia, đời nào cũng xem nó là một di hoạ cho dòng giống mà không đời nào có ý nghĩ huỷ phá nó đi.

 Người thân sinh ra ta, có một hôm nằm mê, thấy chiếc sáo để ở án thờ tổ phụ tự nhiên ngân lên thành tiếng nức nở oán hờn. Người thất thanh hét lên choàng dậy… Lúc ấy chỉ có giông lùa vào liếp, rít qua các lỗ sáo. Từ đấy người sai con cháu lấy nhiễu phong chiếc sáo và buộc bằng dây ngũ sắc vào chiếc án thờ.

 Chiếc sáo truyền từ đời này sang đời khác, nằm xuống trối lại với người sống sau chỉ có một câu truyền kiếp:

 ‘Cuộc sống mai hậu đừng nên thổi sáo này. Tiếng sao tuy hay nhưng hay gì mà sống lại những nghiệp chướng đã qua…’’’

 Kể đến đây người khách lạ ôm mặt khóc nức nở. Người nghệ sĩ thôn Hoàng cũng nức nở khóc theo, và choàng thức dậy vì chính tiếng khóc của mình. Người khách lạ đã đi rồi. Lửa chài ven sông đã tắt. Lúc nhìn lại tay, người nghệ sĩ thôn Hoàng giật mình: chiếc sáo của người khách… hai viên hổ phách như hai giọt máu tươi nhỏ xuống!

 Từ ngày làm chủ chiếc sáo ấy, đời sống và tâm tình người thổi sáo thôn Hoàng thay đổi hẳn.

 Chàng bỏ ăn, bỏ ngủ; Mỗi lần thổi lên tiếng sáo, chàng lại thấy tâm tư như có một cái gì day dứt. Trước chỉ lấy tiếng sáo làm lẽ sống chính của đời mình, nay vì có tiếng sáo ấy, chàng thấy khao khát một điều gì, hoài tiếc một cái gì mà chàng không tìm thấy ở cuộc đời thực tại.

 Một hôm lính phủ giải một người tử tội đi qua thôn Hoàng. Hắn là một tên tướng núi ba mươi năm ngang dọc, xem triều thần như một ổ kiến. Chẳng may sa lưới. Hắn bị trói gô đưa ra pháp trường. Từ khi bị bắt đến lúc nghe tin xử tử, hắn chỉ cười. Lính phủ giải hắn qua lều cỏ lúc người nghệ sĩ thôn Hoàng đang thổi sáo. Bỗng hắn thở dài, gục đầu vào song cũi và khóc nức nở.

 Tên quan ngục hỏi:

 “Mày đã sợ chết rồi ư?”

 Người tử tội quắc mắt:

 “Lưỡi dao của triều thần chúng mày không làm tao sợ bằng tiếng sáo của người ngồi trong lều cỏ.”

 Người tử tội xin gặp người thổi sáo, cúi rạp đầu xuống vấn lễ:

 “Nếu người thương cái chết của kẻ sĩ này, người đừng thổi lên tiếng sáo ấy nữa, vì ta không muốn khóc để lũ chó bọ của triều đình tưởng rằng ta sợ lưỡi gươm của chúng.”

 Hôm sau mấy hồi cồng, chiếc đầu lâu người tướng núi lăn xuống đất, người nghệ sĩ thôn Hoàng ngồi thụp xuống khóc. Chàng cất tiếng sáo. Đôi mắt trên chiếc đầu lâu đang trừng trừng quắc thước nhìn bỗng nhắm nghiền lại… Hai giọt nước mắt cuối cùng lăn xuống đôi môi mấp máy như muốn nói một lời gì.

 Và cũng hôm ấy chàng châm lửa đốt lều cỏ bỏ thôn Hoàng ra đi. Đêm hôm ấy, nước sông Ô Nan xoắn lại ở chân cầu, như chờ nghe tiếng sáo. Hổ báo nằm về nằm lên đống tro của túp lều cỏ, đánh hơi tìm vết chân của người nghệ sĩ… Và từ đấy không ai ở thôn Hoàng còn nghe tiếng sáo của chàng nữa.

 Cứ đi như vậy, một hôm dừng chân nghỉ ở một ngôi chùa, tấm bia đá dựng ở đầu hiên đã đổ, mưa gió làm vẹt cả dòng chữ khắc ngày tháng dựng ngôi chùa. Ngôi chùa đổ nát. Cây rừng chen chân giữa sân tam bảo. Rêu xanh um tùm, dày từng lớp như đệm. Người thổi sáo lần qua cửa tam quan, bước vào chùa. Ở đây mấy đời rồi không ai đặt chân đến?

 Không khí trong ngôi chùa xanh rờn rợn, như rêu đã bám vào lớp không khí đọng lại ở đấy bao đời. Chàng tìm thấy một góc chùa, phủi sạch mặt bệ ngồi xuống. Chàng nhìn xung quanh. Trên một cái bục, dưới một chiếc khám đổ nát, chàng để ý đến một pho tượng. Lau sạch bụi: Đó là một pho tượng Phật Bà. Trong cảnh hoang vắng ấy tìm thấy hình dáng con người, dù chỉ là một pho tượng, chàng thấy đỡ cô quạnh. Trong chỗ tranh tối tranh sáng, pho tượng im lặng như một người đẹp ngao ngán lẽ sống, ẩn vào đây nhập định, môi như mấp máy cầu nguyện một điều gì, ngực phập phồng theo hơi thở… Dưới lớp vôi vữa ấy, chàng sờ lên mặt, lên ngực lên tay, tưởng chừng có khí ấm của da thịt người.

 Đêm hôm ấy chàng nhặt cành khô, đánh đá châm lửa. Bóng đêm chợt thức dậy… Bóng đêm chưa từng biết ánh lửa đã bao nhiêu đời?

 Chàng gối đầu lên chân pho tượng. Pho tượng cúi mặt xuống nhìn chàng. Đôi mắt bằng vôi vữa đêm nay, để lại trong tâm hồn chàng một cảm giác huyền diệu như cái nhìn của đôi mắt long lanh có đồng tử con người bằng xương máu.

 Chàng lấy sáo ra thổi. Cái sống quên lãng ở đây đêm nay xao xuyến. Bóng lửa chập chờn nhớ nhung ai? Tiếng sáo cứ đi lóc lách qua từng kẽ lá… Cái gì đã trót có một tâm hồn ở đây, đêm nay đều thao thức.

 Ánh lửa lụn dần… Giơi thôi bay…

 Bỗng chàng thấy ở cuối sân tam bảo có ánh lửa sáng rực. Tiếng sáo nhạc, sanh phách tấu lên. Đám rước đi qua cửa tam quan. Giữa đám rước có một chiếc kiệu, trên chiếc kiệu có một người đàn bà ăn mặc trang trọng, đầu đội mũ lóng lánh kim sa, ngồi bên cạnh một người con gái trạc 18, 19, tóc để đầu đính một cành hoa màu trắng gần đỉnh đầu. Chàng ngờ ngợ như đã gặp người con gái một lần ở đâu rồi. Đám rước dừng lại.

 Người đàn bà vén xiêm nhẹ nhàng xuống kiệu, dắt người con gái đến trước mặt chàng ra lệnh cho người con gái cúi đầu làm lễ:

 “Xin cảm tạ ơn chàng làm sống lại.”

 Chàng hỏi:

 “Nàng là ai?”

 Người con gái trách móc:

 “Vừa gặp nhau ban chiều đã quên rồi ư?”

 Người đàn bà ngồi kiệu nói:

 “Tiên nữ ta nhờ tiếng sáo người mà hoá kiếp. Nguyên kiếp trước vì một nghiệp trái phải chết, máu trong người ba năm không tan, nước mắt đọng dưới chân mồ. Ta xót thương tiền kiếp, biến xác nó thành vôi hồ cho thợ khéo nặn thành tượng, cho phách nhập vào rừng Tĩnh Tước, và có hẹn đến khi nào tiếng sáo rừng Tĩnh Tước thổi vào vôi hồ của bức tượng này, nàng sẽ được hoá kiếp. Hôm nay lời hẹn đã thành, để tạ ơn hoá kiếp ấy, ta cho phép tiên nữ sẽ theo người.”

 Rồi quay về phía người con gái:

 “Ở nhân thế, tiếng cười và nước mắt vẫn phải còn. Cuộc đời ngàn năm dù có muốn quên đi vẫn chẳng nguôi được, nhưng sống một ngày với nước mắt vẫn còn hơn nghìn năm với kiếp vôi hồ.”

 Dứt lời, người đàn bà lên kiệu, đám rước lại đi xa, đàn sáo nhạt dần…

 Lúc tỉnh giấc, ánh nắng yếu ớt rỏ xuống mặt người thổi sáo từ những lỗ mái thủng, một thứ ánh sáng nhạt như phấn hoa.

 Nhớ lại giấc mơ chàng nhìn pho tượng… Pho tượng đã mất chỉ còn lại trên bệ chiếc hoa sen đắp bằng đất, pho tượng vẫn cầm ở tay.

 Lúc nhìn ra cửa, người con gái đã đứng ở đấy. Chàng chạy lại cầm tay cười:

 “Hôm qua nhìn nhau chẳng nói được nên lời, hôm nay tay đã nắm được tay rồi.”

 Chàng vui vẻ chỉ bục đất:

 “Thử ngồi lại lên bệ như cũ xem!”

 Người con gái cười:

 “Đã ngồi ở đây ngót nghìn năm, còn gì phải thử.”

 Lúc hai người sắp rời ngôi chùa, người con gái bỗng ngồi xuống bệ nước mắt chạy quanh. Người nghệ sĩ thôn Hoàng hỏi:

 “Vui vì kiếp đời vôi vữa mà luyến tiếc?”

 Nàng đáp:

 “Dù sao cũng là một cuộc đời đã qua.”

 Chàng hỏi:

 “Chẳng muốn quên đi được ư?”

 Nàng đáp:

 “Muốn quên và quên là hai việc không giống nhau.”

 Một hôm ngồi cạnh nhau, người con gái nói:

 “Chiếc sáo này từ khi gặp nhau, quên mất nó.”

 Người thổi sáo ôm vợ vào lòng thở dài không nói.

 Nàng hỏi:

 “Đến bao giờ thì thôi thở dài?”

 Người thổi sáo đáp:

 “Đến khi nào tiếng sáo và nước mắt của nàng không hoà cùng nhau; vì ta không bỏ được tiếng sáo nhưng cũng sợ những giọt nước mắt của nàng.”

 Từ đó người đàn bà lại thở dài; một hôm nói:

 “Thà yêu nhau trong nước mắt còn hơn là phải xa nhau.”

 Người thổi sáo đáp:

 “Chỉ sợ có tiếng sáo rồi chẳng yêu được nhau thôi!”

 Nàng cười:

 “Sao nỡ xem tâm hồn nhau như chiếc lá, rụng khỏi cành là xong một kiếp?”

 Chàng nhìn vợ và nhìn chiếc sáo.

 Một hôm dừng lại ở một bến sông. Mây tím ngắt ứ lại, như từng mảng tiết lớn đọng trên trời. Người thổi sáo thôn Hoàng ôm sáo khóc. Vợ đang nhìn bóng mây trôi theo nước, chợt tỉnh hỏi tại sao? Chàng đáp:

 “Ta muốn vứt chiếc sáo này xuống dòng sông.”

 Người vợ hốt hoảng:

 “Để em thay chiếc sáo.”

 Chàng im lặng, hai tay giữ chiếc sáo và vợ lại.

 Nàng nói:

 “Tiền kiếp có nhất thiết chỉ là nước mắt mà thôi đâu? Tiếng cười và hoa bướm cũng bắt đầu cùng có một lúc với nước mắt và thở dài, cớ sao mà sợ?”

 Người thổi sáo lắc đầu nhìn vợ, từ từ đưa sáo lên thổi.

 Người con gái rùng mình. Tiếng sáo như một luồng gió lạnh lùa vào xiêm áo nàng. Nàng nghẹn thở, rợn người, lạnh buốt toàn thân. Tiếng sáo tan trong không, thấm vào xương tuỷ. Tiếng sáo đến với nàng như những giọt dấm thanh đổ vào đống xương mục, đống xương lụn xuống dần, rã từng mảng, hơi bốc bay theo khói.

 Người con gái ôm ngực khóc nức nở. Người thổi sáo hốt hoảng; nàng thổn thức:

 “Tiền kiếp có thể là tiếng cười và hoa bướm, nhưng khi trở về với hiện tại nó vẫn phải về theo cùng với tiếng thở dài và tiếng khóc!”

 Tiếng sáo càng lâm ly bao nhiêu, xương thịt người con gái như tan theo với tiếng sáo. Nàng gầy rạc, chỉ còn đôi mắt là sáng.

 Người thổi sáo có cảm giác mỗi lần thổi lên tiếng sáo, là thổi tan cái khí sống tụ trong người mình yêu.

 Chàng mấy lần muốn bẻ cây sáo, người vợ can:

 “Đừng nên bắt cuộc sống vô tình chỉ có hiện tại mà không có dĩ vãng.”

 “Nhưng tiếng sáo sẽ giết em.”

 “Cuộc đời lúc đã thành dĩ vãng trong những tâm hồn, thì nó cũng thành lời ca, âm nhạc và mầu sắc của những tâm hồn ấy: Có thể có một vài người chết vì dĩ vãng nhưng đừng bắt dĩ vãng phải chết vì một vài người.”

 Nàng nắm tay chồng:

 “Dù người ấy là em.”

 Cứ như thế, cho đến khi người con gái kiệt sức. Nàng nắm chặt tay chồng ra hiệu cúi xuống:

 “Hôm nay chúng ta xa nhau rồi.”

 Người thổi sáo nói:

 “Tiếng sáo oan trái đã giết em! Sao ta chiều em mà chẳng vứt chiếc sáo đi!”

 Nàng không trả lời.

 Nhắm mắt hồi lâu, nàng khẽ nói:

 “Chỉ tượng bằng gỗ đá vô tri mới giữ nổi nụ cười trên môi đời đời kiếp kiếp.”

 Người thổi sáo nói:

 “Giá cứ để em là pho tượng em sẽ không đau khổ và ta chẳng mất em!”

 Nàng cười:

 “Em muốn khóc giọt nước mắt đau khổ của con người hơn cười nụ cười của cực lạc của pho tượng đất!”

 Người thổi sáo ôm vợ vào lòng khóc nức nở. Lúc buông tay ra, vợ đã chết từ lâu, xác nhẹ như miếng than trầm.

 Chôn vợ xong người thổi sáo lại ra đi. Tiếng sáo càng buồn lâm ly, và chàng lại buồn hơn tiếng sáo.

 Một hôm có người khách lạ nghe tiếng sáo lần lại làm quen. Người ấy ngồi nghe quên đi. Người thổi sáo dừng lại hỏi:

 “Khách không lên đường?”

 Người khách chỉ vào chiếc sáo cười không đáp.

 Người nghệ sĩ thôn Hoàng thở dài nhìn chiếc sáo.

 Khách hỏi:

 “Cớ sao buồn?”

 Đáp:

 “Ta buồn, vì còn có người yêu tiếng sáo này.” Và chàng thuật lại câu chuyện chiếc sáo. Hai người cùng khóc.

 Hai người đến đầu xóm Trài. Người nghệ sĩ thôn Hoàng bảo bạn:

 “Mệnh ta khó qua khỏi đêm nay.”

 Khách ngạc nhiên, chàng nói:

 “Đời ta như ngọn đèn cạn dầu, tuy có sáng, nhưng phút chốc tắt ngay được. Nếu ta có chết, xin người đem chiếc sáo này chôn cùng với ta.”

 Nói xong chàng tắt thở như ngọn đèn gặp gió.

 Người khách mang xác chàng ra chôn ở cuối bãi cát bồi. Hắn đặt chiếc sáo xuống rồi lại chép miệng lấy chiếc sáo lên dắt vào đẫy, mấy lần như vậy, cuối cùng hắn thở dài chôn chiếc sáo cùng với người nghệ sĩ thôn Hoàng. Ra đi ngót dặm, hắn quay trở lại moi đất tìm chiếc sáo thì dấu đất mới đào và chiếc sáo đã mất.

 TRẦN DUY

Nguồn: Giai phẩm mùa Thu 1956 – Tập I tháng 9-1956

…. o ….
 

The sound of a flute from a past life

 
By Trần Duy

Translated by Phan Tấn Hải

Edited by Paul Clifford & Hoàng Hưng
  

On the slopes of Mân Mountain flowed the Ô Nan River. Hoàng Village was located along the banks of the Ô Nan River. In Hoàng village lived a young flute player. Though the entire village had known him for a long time, they only knew him as the flute player of Hoàng village.

The animals in Hoàng village had also grown accustomed to the sound of the flute. Night after night, he would bring his flute to the riverbank and play. The water swirled at the base of the bridge. The melody of the flute seemed to encompass the entire river, guiding the guest boats as they drifted along the water.

The sound of his flute had somewhat beautified the harsh life of Hoàng village.

One day, a stranger arrived at Hoàng village and made his way to the grass hut of the flute player. The stranger carried a black cloth shoulder bag, from which a bamboo flute dangled, adorned with two tassels made of gold silk and two amber stones as red as drops of fresh blood. The two men gazed at the flute and greeted each other like old friends. That night, they engaged in conversation. After midnight, they took turns playing the flute. The guest invited the flute player from Hoàng village to perform. As they transitioned from one piece to another, the flute's melody persisted even as the stars shifted in the sky. Dew descended upon the leaves, and the listener felt as though the flute's music mingled with the cold night air, forming pearls that dripped one by one. When the flute's tune ceased, the two men sat in silence, absorbing the echoes of the music. Suddenly, the stranger spoke reflectively, "It's regrettable that I cannot repay this debt."

The flute player of Hoang village said modestly, "I'm afraid I'm not very skilled, and I may not be able to entertain you tonight."

The guest laughed and said, "The sound of your flute playing is so wonderful that it's beyond comparison. I only regret not being a cricket or a blade of grass so that I could live next to this hut and listen to the sound for the rest of my life."

The man from Hoàng village politely said, "Thank you."

The guest sighed and said, "I beg your pardon for being impolite, but I dare not play in response. Even if I blew into your flute until my hair turned white, I would never play as well as you. And as for my flute...."

The guest fell silent, fingering the flute tied to his shoulder bag. The flute player of Hoàng village asked for permission to see it. The guest hesitated and handed it over, still holding the two ends of the flute with both hands. The man from Hoàng village was surprised, "This flute is truly precious!"

The guest shook his head and sighed, "I'm afraid it will only cause us both suffering for the rest of our lives."

The man from Hoàng village returned the flute as if sulking, and silently looked up at the sky. The sky was deep and vast, and his heart felt like it was burning with fire.

Until now, living off fruit trees, drinking spring water, residing in a grass hut, and sleeping on a straw mat, the artist of Hoàng village had not been tormented by any ambition, nor had he suffered for any dream, no matter how big or small.

Only tonight did he suffer because his life had one longing: the flute of the strange guest.

The pole star had already tilted to the south. The herons had begun to fly back up the Ô Nan River. The fishing boats had woken up and made fires, and the sound of knocking on the sides of the boats echoed over Mân Mountain and back to Hoàng village. The dew was still falling; the sound of the flute from the early morning seemed not to have completely faded, and a few more drops remained.

Suddenly, the strange guest stood up and raised his flute to play. The sound of the flute flowed from the depths of the bamboo, sounding very faint. It soared urgently, seeming to constrict the heart with its poignancy. The flute player of Hoang village shuddered, as the sound of the flute pierced his bones and marrow like a thin knife blade, peeling off each tendon. He trembled with emotion, feeling his fingers grow cold, his skin crawl and sweat break out on his forehead, running down in drops.

The flute's melody abruptly ceased. Silence ensued. It seemed as if the trees, grass, rocks, and flowers had all vanished along with the flute's song, leaving behind only one thing: a profound sadness. A sorrow that permeated every fibre of his being, stretching back through countless lifetimes.

The guest, having finished playing, lowered his head to the flute and wept uncontrollably. The villager from Hoang village felt the same ache begin to stir within his own soul.

The guest put the flute away and explained, "Tonight's merriment has been transformed into eternal sorrow by the sound of this flute."

The flute player from Hoang village earnestly pleaded for their friendship, asking to join him on his journey into the world of wandering adventurers.

"Where do you want to go?"

"I want to follow the sound of your flute", replied the villager

"Sound is but air, dissipating into the wind," the guest retorted. "How can you possibly follow it?"

To which the villager responded, "I shall dissolve into the wind, merging with the air to pursue the flute's melody."

The guest chuckled and said, "I've never met anyone as passionate about the flute as you, my friend."

The villager responded, "I've never met anyone who could play the flute like you, guest. Your music has the power to stir sorrows in the gods and bring tears to the eyes of demons."

The guest sighed, "The beauty of this flute's melody lies not in my skill ..."

The guest began to narrate his tale:

"When my grandfather passed away, he left behind this exquisite flute. He was a man deeply passionate about the art of playing the flute. One stormy night, a traveller sought refuge from a downpour at our humble abode. He and my grandfather spent the entire night conversing about the flute, its melodies, and its techniques. My grandfather played the flute, while the traveller kept rhythm, demonstrating a profound understanding of the instrument. Suddenly, the traveller inquired, 'Have you ever heard of the Tĩnh Tước Forest?'

"My grandfather responded that he had never heard of it. The traveller explained, ‘Tĩnh Tước Forest lies thousands of miles away. Once a year, the immortals descend upon the forest to gather bamboo for the flutes of the Moon Palace. The melodies played on these flutes possess the power to stir the souls of the departed, bringing their past lives back into focus. When played amidst graveyards, the dead rise from their coffins, and the cries that have been buried for millennia erupt once more ... When played upon mountainsides, even rocks and trees weep.’

“My grandfather tossed and turned all night.... Suddenly, a loud crack of thunder jolted him awake ... the strange guest was gone, leaving behind only a fan made of fig leaves. My grandfather hung it on a rack as a keepsake.

“One day in the village, during spring, butterflies descended in droves from somewhere. They were colourful and fluttered about. The forest and meadows seemed to bloom.... When the season ended, the butterflies flew away again.... When my grandfather looked at the rack again, the fig leaf fan had also disappeared at some point.

“From the day my grandfather heard the tale of the flute, he became melancholic, neglecting his meals and sleep, wandering aimlessly through the village, inquiring about the Tĩnh Tước Forest with every encounter. Everyone mocked his obsession. My grandfather insisted, ‘The forest lies thousands of miles away.’

“Within a radius of thousands of miles from our village, there existed only the forest of Han leaves, where contact with its leaves sent a chilling sensation to the bone. Could this be the Tĩnh Tước Forest? My grandfather abandoned his home and embarked on a journey. He travelled for weeks under the moonlight, seeking answers from centenarians whose philtrums were longer than their fingers. They all responded, ‘Long ago, when my hair was still a peach pit, I heard whispers of the Tĩnh Tước Forest. A drunkard from our village, after consuming two jugs of wine, set out in search of the Tĩnh Tước Forest. He has never returned since.…’

“My grandfather continued his journey, traversing months and seasons without pause. One afternoon, he sought refuge from the scorching sun in a solitary inn nestled amidst a mountain pass. The inn was devoid of patrons, and as a sudden downpour commenced, the creaking door swung open, revealing a young woman. She was clad in a smoke-coloured silk robe, adorned with a sky-blue sash, and her waist was cinched with two ribbons of white gauze and lake-green silk. Her eyes resembled slender willow leaves. My grandfather caught a whiff of an extraordinary fragrance, distinct from the scents of flowers or grasses. Despite his expertise in orchids, wildflowers, and various herbs, including mugwort, liquorice root, and basil, he had never encountered such an enigmatic aroma.

“The young woman, understanding the unspoken question, smiled and said, ‘This is the fragrance of the Tĩnh Tước Forest.’

“Upon hearing her words, my grandfather fell into a stunned silence, his body trembling uncontrollably. His satchel, unnoticed amidst his shock, slipped from his grasp and clattered to the ground. With an urgency that trembled in his voice, he inquired, ‘In which direction lies the Tĩnh Tước Forest?’

“The young woman extended her hand, pointing towards the horizon, but remained silent.

“A bamboo forest emerged before my grandfather. He sat and recalled that when he reached the foot of the pass that afternoon, there was no bamboo forest in sight, only grassland and reeds.

“The young woman inquired, ‘Have you come here seeking bamboo?’

“My grandfather replied, ‘How did you know?’

“The young woman merely smiled, offering no further explanation. After a moment, she spoke again, warning, ‘Ordinary people should not attempt to play the flutes of the Tĩnh Tước Forest.’

“My grandfather inquired, ‘How is it that a fairy can play the flute?’

“The young woman smiled and replied, ‘Because fairies have no past lives.’

“My grandfather persisted, ‘What do you mean by past lives?’

“The young woman pointed at my grandfather and chuckled, ‘Past lives are the tears of travellers!’

“The young woman continued, ‘While the flute's melody is indeed beautiful, what good is it to dwell on the burdens of the past?’

“That night, my grandfather found himself unable to sleep. As the first rays of dawn pierced the darkness, he ventured into the bamboo forest, wading through the stream. The bamboo stalks stood tall and straight, reaching towards the heavens. Their ivory-coloured bodies were adorned with emerald green veins, and the same enchanting fragrance that had lingered at the inn wafted through the air.

“My grandfather continued his journey through the bamboo forest, yet he encountered no fairies cutting bamboo. Instead, he was enveloped by a cacophony of voices, their origins seemingly shifting and swirling around him. The voices echoed from afar, then seemed to draw closer, only to recede once more. Occasionally, a burst of laughter would pierce the air, and the enchanting fragrance continued to cling to him. A sudden gust of wind swept through the forest, causing the hem of my grandfather's robe to catch on a bamboo branch. A burst of mischievous laughter erupted from the thicket, the sound lingering and fading into the distance. My grandfather, in a frenzy, raised his knife to sever the offending branch. The laughter, however, seemed to retreat further, disappearing into the depths of the forest.

“A shiver ran down my grandfather's spine. In an instant, the bamboo forest had vanished, replaced by a dense fog that enveloped him on all sides. The distant echoes of voices and laughter gradually faded, and the enchanting fragrance grew fainter. Glancing down, he noticed the bamboo branch still clutched tightly in his hand.

“As my grandfather retraced his steps back to the inn, the mountain pass stretched before him, empty except for the expanse of grassland and reeds.

“From the day he acquired the flute, my grandfather's life and spirit underwent a profound transformation. He remained inseparable from the flute, his fingers constantly caressing its smooth surface. As he played, his melodies grew increasingly mournful, and his body grew thinner and frailer. At times, he would embrace the flute, tears streaming down his face for hours on end. This cycle of playing and weeping, weeping and playing, continued day after day, season after season, until my grandfather's once robust frame began to wither away. He barely ate or drank, sustaining himself only on honey and rainwater. In his lucid moments, he would play his haunting melodies, the notes echoing with a profound sorrow that seemed to emanate from the depths of his soul. And then, one day, my grandfather passed away.

“As death approached, my grandfather's body grew cold, and only then did he relinquish his grip on the flute. With his last breath, he uttered a single sentence, ‘My life has been marred by this flute. Let no one in our lineage play this flute in the future. While its melodies are enchanting, they have the power to reawaken past burdens and karmic debts.’

“The flute passed down through generations, held as an heirloom fraught with misfortune. Each generation viewed it as a curse upon their lineage, yet no one dared to destroy it.

“One day, my father had a dream in which he saw the flute resting on my grandfather's altar. Suddenly, the flute began to emit a mournful and resentful melody. My father awoke with a startled cry, his voice trembling. The only sound in the room was the wind whistling through the shutters, rustling through the flute's holes. From that day forward, my father instructed his children to wrap the flute in silk and secure it to the altar with a five-coloured cord.

“The flute was passed down from generation to generation, each transfer accompanied by a solemn warning: ‘Let no one in our lineage play this flute in the future. While its melodies are enchanting, they have the power to reawaken past burdens and karmic debts.’”

As the stranger recounted his tale, he broke down into sobs, his face buried in his hands. The artist from Hoàng Village, deeply moved by the story, found himself weeping uncontrollably. Awakened by his own sobs, he looked around to find the stranger gone. The fire on the boat by the river had gone out. Glancing down at his hands, the artist from Hoàng Village was startled to see the stranger's flute still clutched in his grasp. Two amber beads, like drops of fresh blood, glistened on its surface.

From the moment he acquired that flute, the flute player from Hoang Village underwent a profound transformation in his life and spirit.

He neglected his meals and sleep, his mind consumed by the melodies he produced. Each time he raised the flute to his lips and played, a sense of yearning and longing gripped his heart. Once content to find solace in the simple act of playing, he now felt a deep-seated yearning for something more, a yearning that remained elusive and unattainable in the realm of everyday life.

One day, a government soldier was escorting a condemned prisoner through Hoàng Village. The prisoner was a notorious mountain bandit who had roamed the countryside for thirty years, treating court officials like anthills. However, misfortune had befallen him, and he was now bound and headed for the execution grounds. From the moment of his capture to the news of his impending execution, he had only laughed. As the government soldier led him past the thatched hut where the artist from Hoàng Village was playing his flute, the prisoner suddenly sighed, bowed his head against the bars of his cage, and broke down into sobs.

The prison guard asked, "Are you afraid of death?"

The condemned prisoner glared at the guard, his eyes burning with intensity. "The blades of your royal court lack the power to frighten me as much as the flute melodies of that man in the thatched hut," he declared.

With a deep bow, the prisoner requested an audience with the flute player. "If you have any compassion for the demise of this warrior," he pleaded, "then cease playing that flute. I refuse to shed tears in the presence of those courtly vermin, lest they mistake my tears for fear of their swords."

The following morning, after several peals of the gong, the mountain bandit's severed head rolled to the ground. The artist from Hoang Village sank to his knees and wept. He raised his flute to his lips and played. The eyes on the skull, once glaring sternly, suddenly shut tight. Two final tears rolled down the motionless lips, as if trying to whisper a word.

On that same day, the artist set fire to his thatched hut and left Hoàng Village behind. That night, the waters of the Ô Nan River swirled at the foot of the bridge, as if yearning to hear the sound of his flute once more. Tigers and leopards approached, settling on the ashes of the humble hut, their noses twitching as they sought the scent of the artist's footsteps. And from that day forward, no one in Hoàng Village ever heard the sound of his flute again.

He continued his journey, stopping one day at a temple to rest. He noticed the stone stele at the entrance of the main hall had toppled over, its inscribed date and other details eroded by the wind and rain. The temple itself was in ruins, with trees encroaching upon the courtyard and thick layers of moss covering the ground like a carpet. The flute player passed through the main gate and entered the temple. It was as if no one had set foot in the place for generations.

The air inside the temple was thick with a chilling dampness, as if the moss that clung to the walls had seeped into the very air itself. The flute player found a secluded corner, brushed the dust off a stone bench, and sat down. He looked around, his eyes drawn to a statue on a pedestal beneath a dilapidated altar. As he wiped away the grime, he realised it was a statue of Guan Yin Bodhisattva. In this desolate setting, the sight of a human figure, even if it was just a statue, brought him a sense of comfort. In the dim light, the statue stood silent, like a beautiful woman weary of life, seeking refuge in meditation. Her lips seemed to quiver as if in prayer, and her chest rose and fell with each breath. Underneath the layers of dust, he ran his hand over her face, chest, and arms, almost convinced he could feel the warmth of human skin.

That night, he gathered dry branches and struck stones to kindle a fire. The darkness stirred awake.... How long had it been since the darkness had known the light of fire?

He rested his head on the base of the statue. The statue lowered its gaze to meet his. Its eyes, made of plaster, left a strange sensation in his soul, as if they were the eyes of a living person, with pupils of flesh and blood.

He took out his flute and began to play. The living beings that had been forgotten here tonight awakened and stirred. The fire flickered – was it missing someone? The sound of the flute drifted away, weaving through the gaps between the leaves. Whatever possessed a soul here tonight was restless.

The firelight gradually dimmed, and the bats ceased their flight.

Suddenly, he noticed a bright light emanating from the back of the main hall. The sound of flutes and cymbals filled the air. A procession emerged from the main gate. At the centre of the procession was a palanquin, upon which sat a woman dressed in finery, her head adorned with a shimmering crown of gold dust. Beside her was a young woman of about eighteen or nineteen, her hair styled in a bun with a white flower pinned near the top. The flute player had a vague sense of recognition, as if he had seen the young woman somewhere before. The procession came to a halt.

The woman gently stepped down from the palanquin, leading the young girl to stand before the man. She ordered the young girl to bow in respect and said, "Please thank him for bringing you back to life."

The man asked, "Who are you?"

The young girl reproached, "Have you already forgotten our meeting earlier this afternoon?"

The woman in the sedan chair said, "This fairy was transformed by your flute's melody. In her previous life, she died due to a karmic debt. Her blood did not dissolve for three years, and her tears pooled beneath her grave. I took pity on her previous life, turned her body into lime and mortar for a skilled craftsman to mold into a statue, and had her soul enter the Tĩnh Tước Forest. There was a promise that whenever the sound of a flute from the Tĩnh Tước Forest blows into the lime and mortar of this statue, she will be reincarnated. Today, the promise has been fulfilled. To express gratitude for this reincarnation, I allow the fairy to follow you."

The woman turned to the girl and said, "In the mortal realm, there will always be laughter and tears. Even if you want to forget the past for a thousand years, you cannot. But it is better to live one day with tears than a thousand years as lime and mortar."

With that, the woman got into her sedan chair. The procession moved away again, and the sound of the flutes faded...

When he awoke, a faint sunlight filtered through the holes in the thatched roof, casting a soft, pollen-like glow upon the face of the flute player.

Recalling his dream, he gazed at the statue. However, the statue was gone, leaving only the lotus pedestal made of clay. The lotus flower, which had previously been held in the statue's hand, now rested on the pedestal.

As he looked out the door, the girl was already standing there. He ran over, took her hand, and smiled, "Yesterday we couldn't speak a word to each other, but today our hands are clasped together."

He happily pointed to the mound of earth and said, "Try sitting on the pedestal again!"

The girl laughed, "I've been sitting here for almost a thousand years. What more is there to try?"

As the two were about to leave the temple, the girl suddenly sat down on the pedestal, tears streaming down her face. The artist from Hoàng Village asked, "Are you regretting your life as a statue made of lime and mortar?"

She replied, "It was a life after all."

He asked, "You don't want to forget, do you?"

She replied, "Wanting to forget and forgetting are two different things."

One day, sitting side by side, the girl said, "Since we met, I've forgotten about the flute."

The flute player held his wife close, sighing heavily without speaking.

She asked, "When will you stop sighing?"

The flute player replied, "Not until the sound of my flute and your tears are no longer mingled together; for I cannot abandon my flute, but I also fear your tears."

From then on, the young woman often sighed. One day, she said, "It's better to love each other in tears than to be apart."

The flute player replied, "I'm afraid that when the flute plays, we won't be able to love each other anymore!"

She laughed and said, "How can you compare our hearts to leaves that fall from a branch and end a life?"

He looked at his wife, and then at the flute.

One day, they stopped at a riverbank. The purple clouds were heavy and stagnant, resembling large pools of congealed blood in the sky. The flute player from Hoàng Village held his flute and wept. His wife was watching the clouds drift by with the water when she suddenly came to her senses and asked why. He replied, "I want to throw this flute into the river."

His wife cried out in alarm, "Let my life take the place of the flute."

He was silent, holding his flute and his wife close with both hands.

She said, "Must past lives be nothing but tears? Laughter, flowers, and butterflies also began at the same time as tears and sighs, so why be afraid?"

The flute player shook his head, looked at his wife, and slowly raised his flute to play.

The girl shivered as the sound of the flute enveloped her. It felt like a cold wind blowing through her clothes, causing her to gasp and her body to tremble, a chill running down her spine. The flute's melody dissolved into the air, seeping into her bones and marrow. Its music reached her like drops of clear vinegar poured onto a pile of decaying bones, gradually sinking and crumbling into pieces, their vapour rising with the smoke.

The girl clutched her chest and sobbed uncontrollably. The flute player was alarmed.

She cried out in anguish, "Previous lives may be filled with laughter, flowers, and butterflies, but when we return to the present, they must still come with sighs and tears!"

As the flute's melody grew more mournful, the girl's flesh and bones appeared to melt away with the sound. She became emaciated, with her eyes becoming her only remaining light.

The flute player felt that every time he blew his flute, he was blowing away the life force within his beloved.

He wanted to break the flute several times. His wife stopped him, saying, "Don't force life to be only about the present without the past."

"But the flute will kill you."

"When life has become the past in souls, it also becomes the songs, music, and colours of those souls. There may be a few people who die for the past, but don't let the past die for a few people."

The woman took her husband's hand in hers. "Even if that person is me."

And so it went, until the girl was exhausted. She squeezed her husband's hand tightly, signalling for him to lean down. "Today we part ways."

The flute player said, "The flute of misfortune has killed you! Why did I indulge you instead of throwing the flute away!"

She didn't answer.

Closing her eyes for a long time, she softly said, "Only lifeless wooden and stone statues can maintain a smile on their lips for eternity."

The flute player said, "If I had just let you be a statue, you would not have suffered, and I would not have lost you!"

She laughed, "I would rather cry the tears of human suffering than smile the smile of an earthly paradise depicted on a clay statue!"

The flute player hugged his wife tightly and sobbed. When he let go, his wife had been dead for a long time, her body as light as a piece of incense charcoal.

After burying his wife, the flute player continued on his journey. The sound of the flute grew even more mournful, and he felt even sadder than the flute.

One day, a strange traveller heard the sound of the flute and stopped to listen. He became so engrossed in the music that he forgot to continue on his journey. The flute player stopped playing and asked, "Aren't you going on your way, traveller?"

The traveller simply pointed to the flute and smiled, not answering.

The artist from Hoàng village sighed and looked at the flute.

The traveller asked, "Why are you sad?"

"I am sad because there is still someone who loves this flute." And he recounted the story of the flute. The two of them wept together.

The two men arrived at the head of Trài village. The artist from Hoàng village told his friend, "My fate is unlikely to survive tonight."

While the traveller looked on in astonishment, the artist said, "My life is like an oil lamp running low on fuel. It may still be burning, but it will go out at any moment. If I die, please bury this flute with me."

With that, he breathed his last, like a lamp extinguished by the wind.

The traveller carried the artist's body and buried it at the end of the sandbank. He placed the flute down, then picked it up and put it in his bag, muttering to himself. He repeated this a few times, and finally, with a sigh, he buried the flute with the artist from Hoàng village.

After walking for about a mile, he turned back and dug up the earth to find the flute. However, there was fresh soil where someone had already dug, and the flute was gone.

Source: Giai phẩm Mùa Thu (Fine Works of Fall) 1956 - Volume I, September 1956

 

…. o ….

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bộ Tư Pháp (DOJ) hôm Thứ Ba công bố đợt tài liệu thứ ba về vụ Jeffrey Epstein, bao gồm nhiều tài liệu có liên quan đến Donald Trump, tổng thống đương nhiệm của Mỹ. Đó là email từ một công tố viên, chứng minh rằng Trump đã đi trên phi cơ riêng của Epstein "nhiều lần hơn so với những gì đã công bố trước đây.”
J471. Mendaka Jātaka -- Chuyện một con chó và một con dê dựa vào nhau để sống. Tóm tắt: Đức Phật kể một câu chuyện về một con chó bị bắt quả tang ăn trộm thịt và một con dê bị bắt quả tang ăn trộm cỏ. Hai con vật đã lập một thỏa thuận hợp tác với nhau, vì biết rằng sẽ không ai nghi ngờ một con dê ăn trộm thịt hay một con chó ăn trộm cỏ. Chỉ có vị hiền nhân Mahosadha mới có thể làm sáng tỏ bí ẩn về việc chúng đã trở thành bạn bè như thế nào.
Tối Cao Pháp Viện (TCPV) hôm Thứ Ba 23 Tháng Mười Hai đã ngăn chặn, không cho Tổng thống Trump điều động hàng trăm binh sĩ Vệ binh Quốc gia đến Chicago. Trong một phán quyết không có chữ ký, TCPV đã bác bỏ yêu cầu khẩn cấp của chính quyền Trump, vốn cho rằng cần phải điều động quân đội để bảo vệ các đặc vụ liên bang tham gia thực thi luật nhập cư ở khu vực Chicago. Ba chánh án bảo thủ - Clarence Thomas, Samuel A. Alito Jr. và Neil M. Gorsuch - đã bày tỏ sự phản đối của họ, theo NYTimes.
Một phóng sự thực tế thuộc chương trình “60 Minutes” của CBS News điều tra các cáo buộc ngược đãi những người bị trục xuất từ Mỹ sang El Salvador đã bị rút khỏi lịch phát sóng của CBS News ngay trước giờ lên sóng. Lệnh đến từ quyết định của tổng biên tập Bari Weiss. Tuy nhiên, dù đoạn phim không được phát tại Mỹ hay trên truyền hình Canada, toàn bộ đoạn phóng sự dài 14 phút vẫn bị rò rỉ lên mạng sau khi ứng dụng Global TV của Canada “vô tình” đăng nhầm tập phim. Video nhanh chóng lan truyền trên mạng xã hội và các nền tảng báo chí tự do như substack, reddit.
Sau đây là bản tin của phóng viên Emma Colton trên Fox News hôm 23/12/2025, nhan đề "Trump trade crackdown hits cheap food containers from China, Vietnam with massive new duties" (Trump bố ráp thương mại, nhắm vào các hộp đựng thực phẩm giá rẻ từ Trung Quốc và Việt Nam bằng các mức thuế mới khổng lồ)
- Các Giám Mục Kêu Gọi Ngừng Bố Ráp Di Dân Dịp Giáng Sinh, Tòa Bạch Ốc Từ Chối. - CBS News Rút Phóng Sự Điều Tra Về El Salvador, Video Công Chiếu Trên Mạng Xã Hội. - Dân Biểu Kiện Trump Và Kennedy Center Đã Tự Ý Đổi Tên. - Bộ Tư Pháp Công Bố Đợt 3 Hồ Sơ Epstein Với Các Tài Liệu Liên Quan Trump. - Bill Clinton Lên Tiếng, Yêu Cầu Công Bố Toàn Bộ Hồ Sơ Epstein. - JD Vance Dọn Đường Cho 2028. - Phi Cơ Hải Quân Rơi Ở Texas, Ít Nhất 5 Người Chết. - Trump Giới Thiệu Tàu Chiến Mang Tên Trump Class. - Bộ Thương Mại Mỹ Nói Kinh Tế Mỹ Tăng Trưởng Trong Quý III. - Nga Tấn Công Khắp Ukraine, Ít Nhất Ba Người Chết.
Trường trung tiểu học tư thục mang tên Thích Nhất Hạnh School of Interbeing sắp mở cửa tại vùng Escondido Nam California. Mục đích của trường là không chỉ giảng dạy kiến thức phổ thông, mà còn chú ý hướng dẫn đời sống tinh thần; để các em học sinh sau này có thể vừa thành công trong nghề nghiệp, vừa có khả năng chế tác hạnh phúc cho chính mình, cho gia đình và cho cộng đồng xã hội.
NEW YORK -- Mối tình và cuộc hôn nhân của hai nhà hoạt động Cộng Hòa nổi tiếng George Conway và vợ là Kellyanne Conway y hệt như phim bộ: nàng Kellyanne trở thành cố vấn cao cấp cho Trump trong chính quyền Trump 1, và chàng George Conway chống Trump kịch liệt. Họ ly dị năm 2023 vì liên tục cãi nhau về Trump. Đặc biệt, cô con gái Claudia của họ từ năm 15 tuổi đã đứng về phe chống Trump, lên mạng minh danh chống Trump. Bây giờ, George Conway tranh cử như một người Dân Chủ năm 2026.
- Phim có nữ diễn viên Trần Thu Liễu (cô dâu Việt ở Đài Loan hơn 2 thập niên) vào đề cử Giải Oscar. - Mỹ triệu hồi 48 đại sứ, nhà ngoại giao trong đó có từ Việt Nam vì do Biden bổ nhiệm - Sài Gòn: Thịt heo ngâm hóa chất thành thịt bò, 7 người bị bắt vì làm ra hơn 600kg thịt dỏm/ngày cho 75 tiệm phở - Đặc sứ Mỹ đòi sáp nhập Greenland vào Mỹ, Đan Mạch nổi giận. - Giải độc đắc cho xổ số Powerball tới 1,6 tỷ đô đêm nay - Trả thù các tiểu bang Dân Chủ, Trump chận, ghìm ngân sách thiên tai đối với các tiểu bang Dân Chủ - Nữ Dân biểu Marjorie Taylor Greene lên án Trump gây chiến nhắm vào Venezuela, tố cáo bà Maria Machado (lãnh tụ đối lập Venezuela) ủng hộ Israel diệt chủng ở Gaza - Mỹ sẽ trao tặng 3.000 đô la và "chuyến bay miễn phí về nước" cho di dân lậu chịu rời Mỹ bây giờ - Trung tướng Nga Fanil Sarvarov chết vì xe bị gài bom ở Moscow. - Nghệ sĩ rủ nhau tẩy chay sau khi Trung tâm Kennedy Center đổi ra tên Trump-Kennedy Center - Trump tăng tốc bố ráp dân nhập cư năm 2026 vì th
Trong không khí trang nghiêm và hoan hỷ của ngày Phật sự trọng đại, Đại Hội Hoằng Pháp kỳ III của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) đã được long trọng cử hành trực tuyến qua hệ thống Zoom Meeting vào Thứ Sáu, ngày 19 tháng 12 năm 2025 (nhằm ngày 30 tháng 10 năm Ất Tỵ, Phật lịch 2569).
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Đài Fox cũng than trời vì giá cả mọi thứ ở siêu thị tăng vọt, tỷ lệ ủng hộ Trump thấp chưa từng có. Bài sau đây là của John Mac Ghlionn trên báo the Hill, nhan đề "How President Trump ruined Christmas" (Cách Tổng thống Trump đã phá hỏng mùa lễ Giáng sinh).
Các báo cáo điều tra từ Washington Post (WaPo) công bố ngày 28 tháng 11 năm 2025 hé lộ một mệnh lệnh rùng rợn từ Bộ Trưởng Quốc Phòng Pete Hegseth: "Giết sạch" (Kill everybody) và chuyện này ngay lập tức bị phía Mỹ bác bỏ. Dưới lăng kính của công pháp quốc tế, sự kiện này không còn là một cuộc "tranh cãi chính trị" hay "chiến dịch chống ma túy" mà là một bản cáo trạng về việc vi phạm hệ thống luật pháp mà nhân loại đã xây dựng từ sau Đệ Nhị Thế Chiến.
-- Dân cử Trâm T. Nguyễn tuyên bố tranh cử Quốc Hội: “Đã đến lúc thay đổi Washington”. -- Nhiều thay đổi thuế quan trọng sẽ có hiệu lực từ tháng Giêng 2026. -- Hoa Kỳ dự tính thu hẹp các khuyến cáo chủng ngừa cho trẻ em (học theo Đan Mạch). -- Trợ cấp Obamacare hết hạn, phí bảo hiểm sẽ tăng vọt ngay từ đầu năm 2026. -- Chỉ trong một tuần, bốn người chết trong trại giam của ICE. -- Trung Tâm Kennedy sốt sắng gắn thêm tên Trump; TNS Sanders sẽ soạn dự luật cấm đặt tên bậy bạ. -- Vụ hồ sơ Epstein: càng công bố càng khiến dư luận mất niềm tin. -- New York: DB Elise Stefanik rút lui cuộc đua Thống đốc, sẽ rời Quốc Hội. -- Tòa án chặn chính quyền Trump siết điều kiện trợ cấp cho người vô gia cư. -- Bộ Tư Pháp kháng án phán quyết bác cáo trạng nhắm vào James Comey và Letitia James. -- Trung tướng Francis Donovan được đề cử lãnh đạo Bộ Tư Lệnh Miền Nam, sẽ làm căng hơn với Venezuela. -- Hoa Kỳ không kích dữ dội ISIS tại Syria, trả thù cho ba người thiệt mạng tu
J461. Dasaratha Jātaka -- Mọi người, dù trẻ hay già, giàu hay nghèo đều sẽ chết; thương khóc chỉ làm suy sụp người sống, và không mang người chết trở lại. Tóm tắt: Một cư sĩ mất cha, nên vô cùng đau khổ. Đức Phật kể một câu chuyện về một vị hoàng tử thời xưa, để tránh xung đột, đã lui về vùng núi chờ đợi cái chết của cha mình. Khi tin tức đến, vị hoàng tử không hề đau buồn, vì hiểu rằng tất cả đều phải chết.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.