Chúng ta thường tự hào rằng dân tộc Việt Nam có một nền văn hiến lâu đời. Nếu đúng như vậy thì tại sao nước ta lại nghèo nàn, thua kém thiên hạ về mọi mặt như hiện nay" Có lẽ vì nóng lòng trước hiện trạng này mà một số nhân sĩ đã thao thức đi tìm câu trả lời cho nguyên nhân yếu kém của dân tộc. Nhiều nhược điểm của người Việt đã được nêu lên như: thiếu đoàn kết, thiếu tinh thần, khôn vặt, thiển cận, an phận, v.v…
Trong bài này, tôi không muốn tham gia đào xới ra thêm những điều được cho là “tính xấu” của dân Việt. Tôi chỉ xin đưa ra một vài nhận xét hạn hẹp theo thiển ý cá nhân như sau:
1. Sự mạnh yếu của các dân tộc đều theo qui luật thịnh suy tuần hoàn.
Trong dân gian có câu tục ngữ “Có ai giàu ba họ" Có ai khó ba đời"”. Ðây là một câu nói bình dân nhưng đã thể hiện qui luật tuần hoàn của xã hội loài người: hưng, thịnh, rồi phải suy, để rồi lại hưng.
Trong đời sống, những người trước khi trở thành giàu có, thành công (nhờ tự lực) hầu hết đều phải trải qua những năm tháng trăn trở, phấn đấu, phải đổ mồ hôi, nước mắt, và thậm chí cả máu. Nhiều khi đau khổ, thử thách, khó khăn lại làm cho con người trở nên quyết tâm, sâu sắc, và sáng tạo hơn. Bên cạnh đó, hoàn cảnh và môi trường chung quanh cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định thành công đến nhanh hay chậm, mà người xưa thường gọi là thiên thời, địa lợi, và nhân hòa.
Những quốc gia như Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Nhật, Đức, Ý mà hiện thời giàu mạnh và có nhiều thành tích về mọi mặt đều đã phải trải qua những năm tháng phôi thai lâu dài đầy thử thách. Nước Mỹ và Canada chỉ mới thành cường quốc chừng 100 năm nay. Vài trăm năm trước đó, vùng đất Bắc Mỹ là nơi mà những người cùng khổ khắp năm châu tìm đến để hi vọng thoát khỏi những bế tắc nơi quê cha đất tổ của họ. Đó là một vùng đất của lao động nhọc nhằn, của nguy cơ rình rập, của bất công bóc lột, của những sự ngu dốt, thù ghét, kỳ thị được mang theo từ bên kia đại dương.
Còn Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật trong suốt quá khứ lịch sử vài ngàn năm cũng là những quốc gia đắm chìm trong đau khổ: chiến tranh triền miên, đói lạnh, các lãnh chúa ít biết dùng nhân nghĩa trị dân, giáo quyền lộng hành, dân chúng ngu dốt, kỳ thị, và tàn bạo.
Chính lòng mong muốn vượt thoát khỏi sự tối tăm, khổ ải bao trùm hàng thế kỷ đã làm nảy sinh ra khoa học, kỹ thuật và các ý tưởng về dân chủ, nhân quyền. Từ đau khổ mới phát sinh ra những tác phẩm và tư tưởng lớn. Từ cùng đường, bế tắc, người ta mới buộc phải thám hiểm để tìm lối thoát. Chúng ta cần hiểu rằng những đau khổ mà dân tộc chúng ta đã trải qua thật ra không phải là trở ngại, mà chính là điều kiện góp phần cho sự hưng thịnh của Việt Nam sau này.
Nếu như vậy, tại sao Việt Nam chưa thành cường quốc" Câu trả lời của tôi là: vì các điều kiện chưa tập hợp đầy đủ. Tôi chỉ xin đưa ra một minh họa nhỏ: mặc dù ông cha ta ngày xưa đã phải từ giả đồng bằng sông Hồng để vào khai phá những vùng đất hoang vu ở miền Trung và miền Nam, tuy vậy, hoàn cảnh lúc đó cũng chưa khắc khe đến nổi phải buộc tổ tiên ta giương buồm vượt đại dương hay đánh xe băng qua sa mạc mênh mông hầu tìm đường sống. Chúng ta cứ hay tự thán là nước Việt cứ bị chinh chiến hoài. Nhưng nếu tính lại, trong suốt 1000 năm Bắc thuộc, trung bình từ 100 đến 200 năm mới có một lần khởi nghĩa lớn vì ách cai trị bạo tàn. Trong suốt 1000 năm độc lập, trung bình 100 đến 300 năm mới có 1 lần đánh lớn với Trung Hoa, và hầu hết đều kết thúc nhanh chóng, thậm chí trong vài tháng (ngoại trừ 10 năm kháng Minh của Lê Lợi). Thời kỳ Thập Nhị Sứ Quân cũng chỉ kéo dài có 20 năm. Trong suốt 200 năm Trịnh Nguyễn phân tranh chỉ có 7 trận đánh, mà qui mô cũng không lớn (gần 30 năm mới có một lần). Nếu so với nước Mỹ thì trong 200 năm họ đã có đến trên 10 cuộc chiến qui mô lớn rồi.
Tại sao Nhật, Đại Hàn, Đài Loan cũng có hoàn cảnh giống ta mà đã thành cường quốc, còn Việt Nam thì chưa" Ta có thể hỏi lại như vầy: Thỗ Nhĩ Kỳ và Tây-Ban-Nha thành cường quốc trước Anh, Pháp vài trăm năm. Anh, Pháp thành cường quốc trước Mỹ, Nhật vài trăm năm. Thậm chí, nước Đức thành cường quốc sau nước Hi-Lạp 25 thế kỷ. Bây giờ nhìn lại, những sự đi trước đi sau đó có nghĩa lý gì không" Có quan trọng gì không" Khi điều kiện đã tập hợp đầy đủ, nước Việt nam sẽ thành cường quốc. Còn thành cường quốc vào thế kỷ 19, 20, 21, 22, hay 23 đối với lịch sử sẽ không có mấy khác biệt.
2. Những Giá Trị Của Từng Thời Đại Chưa Chắc Là Giá Trị Vĩnh Viễn
Trong từng thời đại, những giá trị được người ta trầm trồ khen ngợi nhiều khi là do kẻ đang giàu mạnh đặt ra. Khi thời đại thay đổi, lắm khi những thứ đó bỗng trở nên mất giá trị.
Khi Trung Hoa còn là siêu cường, là trung tâm của tinh hoa thế giới, giới sĩ phu nước ta cố gắng chạy theo những giá trị do Trung Hoa đặt ra. Các cụ tự hào khi được Trung Hoa gọi nước ta là “Văn Hiến Chi Bang” . Văn hiến thời đó là thế nào" Đó là rành Hán Văn, biết gieo thơ Đường, làm thi phú, biết đối lại những câu đối khó. Văn hiến thời đó là biết ăn mặc triều phục, biết lễ nghi theo đúng kiểu Thiên Triều. Văn hiến thời đó là rành Tứ Thư, Ngũ Kinh, là theo khuông mẫu Nho phong. Thời đó, những ai không theo các giá trị trên thì bị xem là man ri, là mọi rợ. Tại nước ta, những thiên tài tiêu biểu của nền văn hiến đó là “thần Siêu, thánh Quát”, là Tùng Thiện Vương, là Tuy Lý Vương.
Thời đại cũ trôi qua. Bây giờ, có lẽ chẳng còn ai đánh giá một dân tộc dựa trên khả năng làm thi phú, rành Tứ Thư, Ngũ Kinh, hay biết theo kiểu cách Trung Hoa. Những ai ngày xưa “không thèm bắt chước” cái văn hiến của Trung Hoa thì giờ đây lại được thế giới mới ca ngợi là có bản sắc đặc thù. Chẳng hạn như kiến trúc, nghệ thuật cổ truyền Nhật Bản được thế giới ngưỡng mộ vì có nét đặc thù độc đáo, nhìn vào là biết của Nhật, khó có thể lầm với của Trung Hoa. Ở nước ta, những “thiên tài” Siêu, Quát, Tùng, Tuy của thời “văn hiến” xưa bây giờ chỉ còn là những tên tuổi ít ai biết đến, không thể so sánh nổi với Nguyễn Du và Truyện Kiều. Mà Nguyễn Du thì là người đã có can đảm viết Truyện Kiều bằng thơ Lục Bát và dùng chữ Nôm, hai thứ rất bình dân Việt Nam, nhưng nhờ đó mà tác phẩm của ông mới có được nét đặc thù có một không hai.
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, nhân loại ngưỡng mộ những kẻ mạnh, thích những kẻ có tài chinh phục. Học giả Đông, Tây đề cao Ceasar, Alexander Đại Đế, Thành Cát Tư Hãn, Napoleon. Các nước tân hưng như Nhật, Đức, Ý, Mỹ, Nga đều gắn niềm tự hào dân tộc với việc phải có tàu to súng lớn, binh hùng tướng mạnh, phải chinh phục đất đai, xây dựng đế quốc. Ngay cả ở nước ta, sĩ phu hối hả sang Nhật du học chẳng phải vì nước Nhật đã có cách đem lại hạnh phúc cho dân, mà vì Nhật đánh bại được hạm đội Nga và chiếm đất của Nga. Hậu quả của nhân sinh quan kiểu này là hai cuộc Thế Chiến đẫm máu làm chết hàng chục triệu sinh linh trên toàn cầu.
Đến giữa thế kỷ 20, nhân loại xem kỹ nghệ hóa là giá trị. Lòng tự hào dân tộc bây giờ lại được gắn với khả năng luyện thép, sản xuất xe hơi, chế máy bay, làm đồ điện tử. Nhưng thử hỏi, nếu nước nào cũng luyện thép, sản xuất xe hơi, cũng làm đồ điện tử thì kinh tế thế giới có lẽ sẽ lụn bại vì sẽ chẳng ai bán được đồ gì cho ai. Ðó là chưa kể việc tài nguyên thiên nhiên bị lãng phí vô ích, môi trường bị hư hại. Hãy thử tưởng tượng các bãi biển tuyệt đẹp trên thế giới lần lượt biến mất để nhường chỗ cho các lò nguyên tử, xưởng làm xe, các hãng điện tử,… mọc lên hầu thỏa mãn lòng tự ái dân tộc của các nước!
Trong cuộc sống, chúng ta thường ái mộ những người giàu có, tài ba, nổi tiếng. Nhưng đằng sau nét hào nhoáng đó, họ thường không có thời giờ dành cho vợ con, cho cha mẹ, anh em. Họ phải làm việc đầu tắt mặt tối, căng thẳng cùng cực, phải tranh đấu, phải triệt hạ kẻ khác. Trong khi đó, lại có những người tuy sống đời sống trung bình, nhưng sống trọn vẹn với gia đình, với bè bạn, sống hạnh phúc trong từng ngày tháng. Nếu được chọn lựa, chúng ta sẽ chọn con đường nào" Nhìn xa hơn, chúng ta có muốn Việt Nam đầy ấp những “rừng” nhà chọc trời che lấp ánh mặt trời, xa lộ chằng chịt và kẹt cứng, xe cộ nhả đầy khói, người dân nhồi nhét như cá hộp trong các xe điện ngầm, nhân viên sau giờ làm việc đều phải nốc vài ly rượu để giải tỏa căng thẳng" Hay là ta muốn một nước Việt Nam vẫn còn những đàn cò bay trên các cánh đồng, vẫn còn sóng vỗ bên hàng dừa xanh, một nước Việt Nam chưa bao giờ thắng giải Nobel, ít khi đoạt huy chương vàng Olympic, nhưng người dân ấm no và được sống tự do, êm đềm"
Ngày nay, nền văn minh Tây Phương là mẫu mực của “văn hiến”. Trong các nhạc viện khắp Đông Tây, nhạc cổ điển Tây Phương là cái xương sống của học trình. Các Vận Động Hội thì đầy ấp những môn thể thao xuất phát từ Tây Phương như bóng đá, thể dục dụng cụ, tennis, trượt băng, trượt tuyết, v.v... Vào nhà sách, nhìn vào các cuốn Lịch Sử Nghệ Thuật thì chỉ thấy nói nhiều về mỹ thuật Tây Phương. Bàn về văn chương hay triết học thế giới thì cũng nghe toàn là những tên tuổi Âu Mỹ. Đi chỗ nào trên thế giới cũng thấy đàn ông mặc sơ-mi, thắc cà-vạt, choàng áo “vét”. Cô dâu ở xứ nào mà hơi tự do, khá giả một chút thì cũng mặc áo cưới trắng và đội khăn voan trắng, tay cầm bó hoa như ở Tây Phương. Quân đội nước nào cũng đội bê-rê, đội nón kết, mang dây vàng lủng lẳng trên vai, cũng toàn là những thứ xuất phát từ truyền thống của Tây Phương.
Vì nền văn hóa của thời đại bây giờ là như thế, dân tộc chúng ta dĩ nhiên cũng phải theo dòng và cố gắng tỏ ra kha khá một chút trong cái sân chơi này. Tuy nhiên, nếu chúng ta cứ nhắm mắt cố chạy theo các giá trị Tây Phương hiện thời, hầu mong được “nở mặt nở mày” trong ngắn hạn, thì vài trăm năm nữa, con cháu chúng ta sẽ thất vọng vì cha ông chúng chỉ biết đi bắt chước đám nhà giàu, chứ không biết tạo ra một cái gì đặc thù cho dân tộc.
Tạo ra nét đặc thù xem có vẻ khó nhưng không khó. Không khó vì dân ta đã từng làm và các dân tộc khác cũng đã làm ở mức độ của những con người bình dị. Ngày xưa, trong khi nhiều bậc trí giả nước ta còn lo đi bắt chước văn hiến Trung Hoa, có những con người vô danh trong lòng dân tộc đã sáng tạo ra bao nét chấm phá đặc thù Việt Nam trong văn chương: đó là thể thơ Lục Bát và Song Thất Lục Bát. Từ đó, Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm mới tạo ra những tác phẩm có tầm vóc quốc tế như Truyện Kiều và Chinh Phụ Ngâm. Về y phục, người Việt Nam tạo cho mình những kiểu y trang có nét đặc thù, không thể lầm với Tàu hay Tây: áo tứ thân, áo dài đủ kiểu, áo bà ba, nón lá, và thậm chí “đồ bộ” của phái nữ. Về ẩm thực, người Việt Nam sáng tạo ra những món ăn đặc thù, cũng không thể lầm lẫn với Tây, Tàu: phở, bún, miến, bánh hỏi, bánh cuốn, bánh canh, gỏi cuốn, cơm tấm, bò 7 món, v.v… Về âm nhạc, chúng ta có hát chèo, quan họ, hò Huế, vọng cổ, cải lương cũng mang tính sáng tạo và đặc thù rất cao.
Thử nhìn qua các dân tộc khác, nếu có ai hỏi dân tộc nào trên thế giới có sức sáng tạo âm nhạc phong phú, thừa sức thách thức âm nhạc cổ điển Âu châu, thì tôi xin thưa đó là những người da đen. Suốt thế kỷ qua, trong khi đám con nhà giàu ở châu Á mê mẫn chạy theo học nhạc Mozart và Beethoven, thì những đứa con nhà nghèo da đen ở Mỹ châu đã sáng tạo ra một loại nhạc mà một ngày nào đó sẽ hiên ngang đứng đối mặt với nhạc cổ điển Âu châu trên đài lịch sử: đó là nhạc Jazz.
3. Cá Nhân Phải Hành Động
Giả sử nếu chúng ta có một danh sách liệt kê tất cả các nhược điểm của dân tộc Việt Nam, thì chúng ta sẽ làm gì với cái danh sách đó" Hô hào bằng miệng, kêu gọi quần chúng “khắc phục khuyết điểm, phát huy tinh thần” này nọ ư" Nếu chuyện đó khả thi thì thế giới này có lẽ đã thành thiên đàng lâu rồi. Còn chỉ trích, hạ nhục dân tộc để khích động lòng tự ái của toàn dân ư" Đúng là khổ nhục kế có thể đẩy con người vươn lên. Nhưng thường những con người vươn lên kiểu này đều đầy dẫy mặc cảm tự ti và tự tôn, đầy dẫy thành kiến và sân hận. Tại sao ta không thể đi chậm hơn một chút, nhưng đi một cách đàng hoàng, tử tế, nhân ái" Na Uy, Thụy Ðiển đi chậm, đi sau, ít thành tích, nhưng lương tâm dân tộc không có những cắn rứt, tay họ không vấy máu như dân Anh, dân Pháp, dân Đức, dân Nhật. Nhìn vào dân Đại Hàn, ta thấy họ tiến bộ nhanh thật đấy, nhưng tâm thức họ đầy những mặc cảm và tự ái rất “chướng”. Ta có muốn dân Việt Nam trở thành như vậy hay không" Ta có muốn dân Việt Nam chưa chi mà đã muốn học đòi làm “chủng tộc thượng đẳng” như dân Nhật đã từng làm ở Trung Hoa, Triều Tiên và dân Hàn đang dở quẻ với các công nhân ở Đông Nam Á hay không"
Chuyện nên làm là mỗi cá nhân cứ mạnh dạn hành động khi thấy chuyện cần làm, muốn làm, và trong khả năng mình có thể làm được. Những hành động không cần gì phải cao siêu: Bà nội trợ chế ra một món ăn mới vì không tìm được các món quen thuộc ngoài chợ. Một anh lính ghi lại trong nhật ký những tâm sự tận đáy lòng của mình. Một người thợ mộc nghĩ ra kiểu tủ mới. Một thầy lang phát hiện dược tính của vài loại rau, v.v… Giữa hàng triệu hành động như vậy trong nhiều năm, thế nào cũng sẽ nảy sinh ra những hành động có tầm vóc quốc tế và lịch sử. Khi điều kiện đã tập hợp đầy đủ, bỗng nhiên ta sẽ thấy thế giới dồn cặp mắt trầm trồ về Việt Nam. Ta nên nhớ rằng ngày xưa, thế giới đã chẳng biết Van Gogh là ai, đã cho Gallileo là thằng vớ vẫn, đã chẳng hề biết Guttenberg là cái anh nhà quê nào.
Người Việt hay đỗ lỗi cho nạn thiếu đoàn kết để biện minh cho sự thua kém. Tuy nhiên, xin hãy cứ nhìn lại lịch sử: những người làm được việc lớn là những người chẳng bao giờ thèm thắc mắc là có đoàn kết hay không. Thấy việc cần làm là làm. Khi mình làm được, quần chúng sẽ theo. Còn mình làm không được, là tại mình dở, chứ không phải tại thiếu đoàn kết.
Dưới thời nhà Trần, khi quân Nguyên sắp đánh nước ta, triều đình ta đã chia rẽ làm 3 phe: phe chủ chiến, phe muốn nhập với nhà Tống, và phe muốn thỏa hiệp với nhà Nguyên. Trong nội bộ dòng họ Trần lại còn có những mối thâm thù âm ỉ, khiến nhiều người nghi ngờ Hưng Đạo Vương có thể giết vua để đoạt ngôi. Khi giặc chiếm Thăng Long, có nhiều quan chức, hoàng thân còn ra cộng tác với giặc. Nhưng nhờ lòng quyết tâm và tài chính trị, vua Trần Nhân Tôn, Hưng Đạo Vương, cùng một số tướng lãnh đã thu phục được quần chúng để phục vụ cho mục đích của mình. Hội nghị Diên Hồng có lẽ là một sáng tạo chính trị của vua Trần nhằm động viên tinh thần dân chúng hơn là để trưng cầu dân ý. Vì nếu thật sự là một “quốc dân đại hội” thì chắc chắn là đã diển ra cảnh “chín người mười ý” như từng xảy ra trong triều đình rồi.
Khi Lê Lợi và Nguyễn Trãi khởi nghĩa chống quân Minh cũng thế. Lúc mới ra quân, có lẽ quần chúng chẳng ai biết Lê Lợi và Nguyễn Trãi là ai. Theo như trong Bình Ngô Ðại Cáo, tuấn kiệt đến giúp thì ít ỏi “như sao buổi sớm”, nhân tài ra góp sức thì thưa vắng “như lá mùa thu”. Nguyễn Trãi đã phải than rằng: “Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần. Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.” Vậy mà Lê Lợi và Nguyễn Trãi đâu thèm thắc mắc là lòng người có đoàn kết hay không" Việc đáng làm thì ta cứ làm. Thấy ta làm được việc thì từ từ người sẽ theo. Chưa có đoàn kết, thì ta sẽ tạo ra đoàn kết.
Đó là những suy nghĩ rất thô thiển của cá nhân tôi.
Trong bài này, tôi không muốn tham gia đào xới ra thêm những điều được cho là “tính xấu” của dân Việt. Tôi chỉ xin đưa ra một vài nhận xét hạn hẹp theo thiển ý cá nhân như sau:
1. Sự mạnh yếu của các dân tộc đều theo qui luật thịnh suy tuần hoàn.
Trong dân gian có câu tục ngữ “Có ai giàu ba họ" Có ai khó ba đời"”. Ðây là một câu nói bình dân nhưng đã thể hiện qui luật tuần hoàn của xã hội loài người: hưng, thịnh, rồi phải suy, để rồi lại hưng.
Trong đời sống, những người trước khi trở thành giàu có, thành công (nhờ tự lực) hầu hết đều phải trải qua những năm tháng trăn trở, phấn đấu, phải đổ mồ hôi, nước mắt, và thậm chí cả máu. Nhiều khi đau khổ, thử thách, khó khăn lại làm cho con người trở nên quyết tâm, sâu sắc, và sáng tạo hơn. Bên cạnh đó, hoàn cảnh và môi trường chung quanh cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định thành công đến nhanh hay chậm, mà người xưa thường gọi là thiên thời, địa lợi, và nhân hòa.
Những quốc gia như Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Nhật, Đức, Ý mà hiện thời giàu mạnh và có nhiều thành tích về mọi mặt đều đã phải trải qua những năm tháng phôi thai lâu dài đầy thử thách. Nước Mỹ và Canada chỉ mới thành cường quốc chừng 100 năm nay. Vài trăm năm trước đó, vùng đất Bắc Mỹ là nơi mà những người cùng khổ khắp năm châu tìm đến để hi vọng thoát khỏi những bế tắc nơi quê cha đất tổ của họ. Đó là một vùng đất của lao động nhọc nhằn, của nguy cơ rình rập, của bất công bóc lột, của những sự ngu dốt, thù ghét, kỳ thị được mang theo từ bên kia đại dương.
Còn Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật trong suốt quá khứ lịch sử vài ngàn năm cũng là những quốc gia đắm chìm trong đau khổ: chiến tranh triền miên, đói lạnh, các lãnh chúa ít biết dùng nhân nghĩa trị dân, giáo quyền lộng hành, dân chúng ngu dốt, kỳ thị, và tàn bạo.
Chính lòng mong muốn vượt thoát khỏi sự tối tăm, khổ ải bao trùm hàng thế kỷ đã làm nảy sinh ra khoa học, kỹ thuật và các ý tưởng về dân chủ, nhân quyền. Từ đau khổ mới phát sinh ra những tác phẩm và tư tưởng lớn. Từ cùng đường, bế tắc, người ta mới buộc phải thám hiểm để tìm lối thoát. Chúng ta cần hiểu rằng những đau khổ mà dân tộc chúng ta đã trải qua thật ra không phải là trở ngại, mà chính là điều kiện góp phần cho sự hưng thịnh của Việt Nam sau này.
Nếu như vậy, tại sao Việt Nam chưa thành cường quốc" Câu trả lời của tôi là: vì các điều kiện chưa tập hợp đầy đủ. Tôi chỉ xin đưa ra một minh họa nhỏ: mặc dù ông cha ta ngày xưa đã phải từ giả đồng bằng sông Hồng để vào khai phá những vùng đất hoang vu ở miền Trung và miền Nam, tuy vậy, hoàn cảnh lúc đó cũng chưa khắc khe đến nổi phải buộc tổ tiên ta giương buồm vượt đại dương hay đánh xe băng qua sa mạc mênh mông hầu tìm đường sống. Chúng ta cứ hay tự thán là nước Việt cứ bị chinh chiến hoài. Nhưng nếu tính lại, trong suốt 1000 năm Bắc thuộc, trung bình từ 100 đến 200 năm mới có một lần khởi nghĩa lớn vì ách cai trị bạo tàn. Trong suốt 1000 năm độc lập, trung bình 100 đến 300 năm mới có 1 lần đánh lớn với Trung Hoa, và hầu hết đều kết thúc nhanh chóng, thậm chí trong vài tháng (ngoại trừ 10 năm kháng Minh của Lê Lợi). Thời kỳ Thập Nhị Sứ Quân cũng chỉ kéo dài có 20 năm. Trong suốt 200 năm Trịnh Nguyễn phân tranh chỉ có 7 trận đánh, mà qui mô cũng không lớn (gần 30 năm mới có một lần). Nếu so với nước Mỹ thì trong 200 năm họ đã có đến trên 10 cuộc chiến qui mô lớn rồi.
Tại sao Nhật, Đại Hàn, Đài Loan cũng có hoàn cảnh giống ta mà đã thành cường quốc, còn Việt Nam thì chưa" Ta có thể hỏi lại như vầy: Thỗ Nhĩ Kỳ và Tây-Ban-Nha thành cường quốc trước Anh, Pháp vài trăm năm. Anh, Pháp thành cường quốc trước Mỹ, Nhật vài trăm năm. Thậm chí, nước Đức thành cường quốc sau nước Hi-Lạp 25 thế kỷ. Bây giờ nhìn lại, những sự đi trước đi sau đó có nghĩa lý gì không" Có quan trọng gì không" Khi điều kiện đã tập hợp đầy đủ, nước Việt nam sẽ thành cường quốc. Còn thành cường quốc vào thế kỷ 19, 20, 21, 22, hay 23 đối với lịch sử sẽ không có mấy khác biệt.
2. Những Giá Trị Của Từng Thời Đại Chưa Chắc Là Giá Trị Vĩnh Viễn
Trong từng thời đại, những giá trị được người ta trầm trồ khen ngợi nhiều khi là do kẻ đang giàu mạnh đặt ra. Khi thời đại thay đổi, lắm khi những thứ đó bỗng trở nên mất giá trị.
Khi Trung Hoa còn là siêu cường, là trung tâm của tinh hoa thế giới, giới sĩ phu nước ta cố gắng chạy theo những giá trị do Trung Hoa đặt ra. Các cụ tự hào khi được Trung Hoa gọi nước ta là “Văn Hiến Chi Bang” . Văn hiến thời đó là thế nào" Đó là rành Hán Văn, biết gieo thơ Đường, làm thi phú, biết đối lại những câu đối khó. Văn hiến thời đó là biết ăn mặc triều phục, biết lễ nghi theo đúng kiểu Thiên Triều. Văn hiến thời đó là rành Tứ Thư, Ngũ Kinh, là theo khuông mẫu Nho phong. Thời đó, những ai không theo các giá trị trên thì bị xem là man ri, là mọi rợ. Tại nước ta, những thiên tài tiêu biểu của nền văn hiến đó là “thần Siêu, thánh Quát”, là Tùng Thiện Vương, là Tuy Lý Vương.
Thời đại cũ trôi qua. Bây giờ, có lẽ chẳng còn ai đánh giá một dân tộc dựa trên khả năng làm thi phú, rành Tứ Thư, Ngũ Kinh, hay biết theo kiểu cách Trung Hoa. Những ai ngày xưa “không thèm bắt chước” cái văn hiến của Trung Hoa thì giờ đây lại được thế giới mới ca ngợi là có bản sắc đặc thù. Chẳng hạn như kiến trúc, nghệ thuật cổ truyền Nhật Bản được thế giới ngưỡng mộ vì có nét đặc thù độc đáo, nhìn vào là biết của Nhật, khó có thể lầm với của Trung Hoa. Ở nước ta, những “thiên tài” Siêu, Quát, Tùng, Tuy của thời “văn hiến” xưa bây giờ chỉ còn là những tên tuổi ít ai biết đến, không thể so sánh nổi với Nguyễn Du và Truyện Kiều. Mà Nguyễn Du thì là người đã có can đảm viết Truyện Kiều bằng thơ Lục Bát và dùng chữ Nôm, hai thứ rất bình dân Việt Nam, nhưng nhờ đó mà tác phẩm của ông mới có được nét đặc thù có một không hai.
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, nhân loại ngưỡng mộ những kẻ mạnh, thích những kẻ có tài chinh phục. Học giả Đông, Tây đề cao Ceasar, Alexander Đại Đế, Thành Cát Tư Hãn, Napoleon. Các nước tân hưng như Nhật, Đức, Ý, Mỹ, Nga đều gắn niềm tự hào dân tộc với việc phải có tàu to súng lớn, binh hùng tướng mạnh, phải chinh phục đất đai, xây dựng đế quốc. Ngay cả ở nước ta, sĩ phu hối hả sang Nhật du học chẳng phải vì nước Nhật đã có cách đem lại hạnh phúc cho dân, mà vì Nhật đánh bại được hạm đội Nga và chiếm đất của Nga. Hậu quả của nhân sinh quan kiểu này là hai cuộc Thế Chiến đẫm máu làm chết hàng chục triệu sinh linh trên toàn cầu.
Đến giữa thế kỷ 20, nhân loại xem kỹ nghệ hóa là giá trị. Lòng tự hào dân tộc bây giờ lại được gắn với khả năng luyện thép, sản xuất xe hơi, chế máy bay, làm đồ điện tử. Nhưng thử hỏi, nếu nước nào cũng luyện thép, sản xuất xe hơi, cũng làm đồ điện tử thì kinh tế thế giới có lẽ sẽ lụn bại vì sẽ chẳng ai bán được đồ gì cho ai. Ðó là chưa kể việc tài nguyên thiên nhiên bị lãng phí vô ích, môi trường bị hư hại. Hãy thử tưởng tượng các bãi biển tuyệt đẹp trên thế giới lần lượt biến mất để nhường chỗ cho các lò nguyên tử, xưởng làm xe, các hãng điện tử,… mọc lên hầu thỏa mãn lòng tự ái dân tộc của các nước!
Trong cuộc sống, chúng ta thường ái mộ những người giàu có, tài ba, nổi tiếng. Nhưng đằng sau nét hào nhoáng đó, họ thường không có thời giờ dành cho vợ con, cho cha mẹ, anh em. Họ phải làm việc đầu tắt mặt tối, căng thẳng cùng cực, phải tranh đấu, phải triệt hạ kẻ khác. Trong khi đó, lại có những người tuy sống đời sống trung bình, nhưng sống trọn vẹn với gia đình, với bè bạn, sống hạnh phúc trong từng ngày tháng. Nếu được chọn lựa, chúng ta sẽ chọn con đường nào" Nhìn xa hơn, chúng ta có muốn Việt Nam đầy ấp những “rừng” nhà chọc trời che lấp ánh mặt trời, xa lộ chằng chịt và kẹt cứng, xe cộ nhả đầy khói, người dân nhồi nhét như cá hộp trong các xe điện ngầm, nhân viên sau giờ làm việc đều phải nốc vài ly rượu để giải tỏa căng thẳng" Hay là ta muốn một nước Việt Nam vẫn còn những đàn cò bay trên các cánh đồng, vẫn còn sóng vỗ bên hàng dừa xanh, một nước Việt Nam chưa bao giờ thắng giải Nobel, ít khi đoạt huy chương vàng Olympic, nhưng người dân ấm no và được sống tự do, êm đềm"
Ngày nay, nền văn minh Tây Phương là mẫu mực của “văn hiến”. Trong các nhạc viện khắp Đông Tây, nhạc cổ điển Tây Phương là cái xương sống của học trình. Các Vận Động Hội thì đầy ấp những môn thể thao xuất phát từ Tây Phương như bóng đá, thể dục dụng cụ, tennis, trượt băng, trượt tuyết, v.v... Vào nhà sách, nhìn vào các cuốn Lịch Sử Nghệ Thuật thì chỉ thấy nói nhiều về mỹ thuật Tây Phương. Bàn về văn chương hay triết học thế giới thì cũng nghe toàn là những tên tuổi Âu Mỹ. Đi chỗ nào trên thế giới cũng thấy đàn ông mặc sơ-mi, thắc cà-vạt, choàng áo “vét”. Cô dâu ở xứ nào mà hơi tự do, khá giả một chút thì cũng mặc áo cưới trắng và đội khăn voan trắng, tay cầm bó hoa như ở Tây Phương. Quân đội nước nào cũng đội bê-rê, đội nón kết, mang dây vàng lủng lẳng trên vai, cũng toàn là những thứ xuất phát từ truyền thống của Tây Phương.
Vì nền văn hóa của thời đại bây giờ là như thế, dân tộc chúng ta dĩ nhiên cũng phải theo dòng và cố gắng tỏ ra kha khá một chút trong cái sân chơi này. Tuy nhiên, nếu chúng ta cứ nhắm mắt cố chạy theo các giá trị Tây Phương hiện thời, hầu mong được “nở mặt nở mày” trong ngắn hạn, thì vài trăm năm nữa, con cháu chúng ta sẽ thất vọng vì cha ông chúng chỉ biết đi bắt chước đám nhà giàu, chứ không biết tạo ra một cái gì đặc thù cho dân tộc.
Tạo ra nét đặc thù xem có vẻ khó nhưng không khó. Không khó vì dân ta đã từng làm và các dân tộc khác cũng đã làm ở mức độ của những con người bình dị. Ngày xưa, trong khi nhiều bậc trí giả nước ta còn lo đi bắt chước văn hiến Trung Hoa, có những con người vô danh trong lòng dân tộc đã sáng tạo ra bao nét chấm phá đặc thù Việt Nam trong văn chương: đó là thể thơ Lục Bát và Song Thất Lục Bát. Từ đó, Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm mới tạo ra những tác phẩm có tầm vóc quốc tế như Truyện Kiều và Chinh Phụ Ngâm. Về y phục, người Việt Nam tạo cho mình những kiểu y trang có nét đặc thù, không thể lầm với Tàu hay Tây: áo tứ thân, áo dài đủ kiểu, áo bà ba, nón lá, và thậm chí “đồ bộ” của phái nữ. Về ẩm thực, người Việt Nam sáng tạo ra những món ăn đặc thù, cũng không thể lầm lẫn với Tây, Tàu: phở, bún, miến, bánh hỏi, bánh cuốn, bánh canh, gỏi cuốn, cơm tấm, bò 7 món, v.v… Về âm nhạc, chúng ta có hát chèo, quan họ, hò Huế, vọng cổ, cải lương cũng mang tính sáng tạo và đặc thù rất cao.
Thử nhìn qua các dân tộc khác, nếu có ai hỏi dân tộc nào trên thế giới có sức sáng tạo âm nhạc phong phú, thừa sức thách thức âm nhạc cổ điển Âu châu, thì tôi xin thưa đó là những người da đen. Suốt thế kỷ qua, trong khi đám con nhà giàu ở châu Á mê mẫn chạy theo học nhạc Mozart và Beethoven, thì những đứa con nhà nghèo da đen ở Mỹ châu đã sáng tạo ra một loại nhạc mà một ngày nào đó sẽ hiên ngang đứng đối mặt với nhạc cổ điển Âu châu trên đài lịch sử: đó là nhạc Jazz.
3. Cá Nhân Phải Hành Động
Giả sử nếu chúng ta có một danh sách liệt kê tất cả các nhược điểm của dân tộc Việt Nam, thì chúng ta sẽ làm gì với cái danh sách đó" Hô hào bằng miệng, kêu gọi quần chúng “khắc phục khuyết điểm, phát huy tinh thần” này nọ ư" Nếu chuyện đó khả thi thì thế giới này có lẽ đã thành thiên đàng lâu rồi. Còn chỉ trích, hạ nhục dân tộc để khích động lòng tự ái của toàn dân ư" Đúng là khổ nhục kế có thể đẩy con người vươn lên. Nhưng thường những con người vươn lên kiểu này đều đầy dẫy mặc cảm tự ti và tự tôn, đầy dẫy thành kiến và sân hận. Tại sao ta không thể đi chậm hơn một chút, nhưng đi một cách đàng hoàng, tử tế, nhân ái" Na Uy, Thụy Ðiển đi chậm, đi sau, ít thành tích, nhưng lương tâm dân tộc không có những cắn rứt, tay họ không vấy máu như dân Anh, dân Pháp, dân Đức, dân Nhật. Nhìn vào dân Đại Hàn, ta thấy họ tiến bộ nhanh thật đấy, nhưng tâm thức họ đầy những mặc cảm và tự ái rất “chướng”. Ta có muốn dân Việt Nam trở thành như vậy hay không" Ta có muốn dân Việt Nam chưa chi mà đã muốn học đòi làm “chủng tộc thượng đẳng” như dân Nhật đã từng làm ở Trung Hoa, Triều Tiên và dân Hàn đang dở quẻ với các công nhân ở Đông Nam Á hay không"
Chuyện nên làm là mỗi cá nhân cứ mạnh dạn hành động khi thấy chuyện cần làm, muốn làm, và trong khả năng mình có thể làm được. Những hành động không cần gì phải cao siêu: Bà nội trợ chế ra một món ăn mới vì không tìm được các món quen thuộc ngoài chợ. Một anh lính ghi lại trong nhật ký những tâm sự tận đáy lòng của mình. Một người thợ mộc nghĩ ra kiểu tủ mới. Một thầy lang phát hiện dược tính của vài loại rau, v.v… Giữa hàng triệu hành động như vậy trong nhiều năm, thế nào cũng sẽ nảy sinh ra những hành động có tầm vóc quốc tế và lịch sử. Khi điều kiện đã tập hợp đầy đủ, bỗng nhiên ta sẽ thấy thế giới dồn cặp mắt trầm trồ về Việt Nam. Ta nên nhớ rằng ngày xưa, thế giới đã chẳng biết Van Gogh là ai, đã cho Gallileo là thằng vớ vẫn, đã chẳng hề biết Guttenberg là cái anh nhà quê nào.
Người Việt hay đỗ lỗi cho nạn thiếu đoàn kết để biện minh cho sự thua kém. Tuy nhiên, xin hãy cứ nhìn lại lịch sử: những người làm được việc lớn là những người chẳng bao giờ thèm thắc mắc là có đoàn kết hay không. Thấy việc cần làm là làm. Khi mình làm được, quần chúng sẽ theo. Còn mình làm không được, là tại mình dở, chứ không phải tại thiếu đoàn kết.
Dưới thời nhà Trần, khi quân Nguyên sắp đánh nước ta, triều đình ta đã chia rẽ làm 3 phe: phe chủ chiến, phe muốn nhập với nhà Tống, và phe muốn thỏa hiệp với nhà Nguyên. Trong nội bộ dòng họ Trần lại còn có những mối thâm thù âm ỉ, khiến nhiều người nghi ngờ Hưng Đạo Vương có thể giết vua để đoạt ngôi. Khi giặc chiếm Thăng Long, có nhiều quan chức, hoàng thân còn ra cộng tác với giặc. Nhưng nhờ lòng quyết tâm và tài chính trị, vua Trần Nhân Tôn, Hưng Đạo Vương, cùng một số tướng lãnh đã thu phục được quần chúng để phục vụ cho mục đích của mình. Hội nghị Diên Hồng có lẽ là một sáng tạo chính trị của vua Trần nhằm động viên tinh thần dân chúng hơn là để trưng cầu dân ý. Vì nếu thật sự là một “quốc dân đại hội” thì chắc chắn là đã diển ra cảnh “chín người mười ý” như từng xảy ra trong triều đình rồi.
Khi Lê Lợi và Nguyễn Trãi khởi nghĩa chống quân Minh cũng thế. Lúc mới ra quân, có lẽ quần chúng chẳng ai biết Lê Lợi và Nguyễn Trãi là ai. Theo như trong Bình Ngô Ðại Cáo, tuấn kiệt đến giúp thì ít ỏi “như sao buổi sớm”, nhân tài ra góp sức thì thưa vắng “như lá mùa thu”. Nguyễn Trãi đã phải than rằng: “Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần. Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.” Vậy mà Lê Lợi và Nguyễn Trãi đâu thèm thắc mắc là lòng người có đoàn kết hay không" Việc đáng làm thì ta cứ làm. Thấy ta làm được việc thì từ từ người sẽ theo. Chưa có đoàn kết, thì ta sẽ tạo ra đoàn kết.
Đó là những suy nghĩ rất thô thiển của cá nhân tôi.
Gửi ý kiến của bạn



