NN: Xin Thượng Tọa cho biết cơ duyên nào đã khiến TT có mặt tại Hoa Kỳ hôm nay"
TT Quảng Ba : Trước hết chúng tôi xin có lời cám ơn anh và tòa soạn Việt Báo đã có nhã ý cho tôi có cuộc tiếp xúc này. Nhân đây cũng xin gởi đến độc giả của quý báo trên khắp thế giới cũng như trên hệ thống Việt Báo Online lời cầu chúc hạnh phúc và thành công trên mọi phương diện.
Sau khi tù tội với CS nhiều lần đã đến định cư tại Úc, trong 18 năm qua chúng tôi cũng đã làm được khá nhiều việc trong các lãnh vực Hoằng Pháp, Văn Hóa, Giáo Dục và Từ Thiện vàù đem Phật Giáo phổ cập vào đời sống nước Úc trong đó bao gồm nguơiø Việt và người Úc.
Hiện nay tôi là Phó Hội Chủ GHPGVNTNHN tại Úc và Tân Tây Lan, tuy nhiên đó là chức vụ mới chúng tôi đảm nhận trong vòng hai năm nay mà thôi, Chúng tôi đã sáng lập Tu Viện Vạn Hạnh tại thủ đô Canberra từ năm 84. Chuyến này nhận lời mời của GHPGViệt NamTN tại Hoa Kỳ và chúng tôi đãû đến phó hội và tham dự đại hội thường niên lần thứ I kỳ III.
Chúng tôi vừa có ba ngày họp rất có ý nghĩa và đạt được nhiều quyết nghị tốt cho các hoạt động trong tương lai của GH tại HK và cho khắp thế giới tại Tu Viện Pháp Vương thành phố San Diego và hôm nay trên đường trở về Úc Châu chúng tôi đã may mắn có cơ hội thưa chuyện cùng đọc giả của Việt Báo.
NN : Xin TT cho biết sơ lượt về tình hình Phật Giáo tại Tu Viện Vạn Hạnh nói riêng và tại Úc, Tân Tây Lan nói chung.
TT Quảng Ba: Có lẽ tình hình Phật Giáo tại đây có nhiều đặc điểm khác hơn tại Hoa Kỳ. Thứ nhất đồng hương chúng ta chỉ có khoảng hơn 200 nghìn nghĩa là 1 phần 10 của HK. Số lượng Chùa được lập ra trong suốt hơn 20 năm qua tại Úc là hơn 40 ngôi trong số đó có khoảng mười mấy ngôi đã xây cất hoàn thành hay sắp hoàn thành có quy mô tốt và lớn ngoài ra cũng chỉ là những tư gia được tân trang lại.
Về phần Tăng Ni sang Úc từ những năm 79-80 qua ngã tỵ nạn, đoàn tụ, du học cũng có đến cả trăm vị và cũng có khoảng 50 vị xuất gia tại nước Úc tuy nhiên số lượng đó đang hành đạo trong hơn 40 ngôi chùa tại Úc với sự phân biệt khác nhau rất sơ sài của hai Giáo Hội, đúng ra thì cũng có tới 5-6 Giáo Hội có chùa tại Úc nhưng mà chỉ tập trung vào trong hai hệ thống hành chánh thôi, đó là: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan do Hòa Thượng Thích Phước Huệ làm Viện Trưởng, và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan do Hòa Thượng Thích Như Huệ làm Hội Chủ và chúng tôi là Thích Quảng Ba làm Hội Phó Hội Chủ Ngoại vụ. GHPGTHHN có 30 đơn vị tự viện trên khắp nước Úc và Giáo Hội kia thì có khoảng 10 đơn vị tự viện đó là mô tả rất sơ lượt về tình hình PG tại Úc Châu.
Hầu hết đồng hương tại Úc đều sống ở Sydney và Melbourne mỗi nơi có tới 7-8 chục nghìn người Việt còn lại tại ba thành phố khác ở Tây Úc, Nam Úc và Queens Land mỗi nơi có khoảng 17-18 nghìn cư dân gốc Việt. Riêng tại Canberra nơi chúng tôi lập Tu viện Vạn Hïanh từ thời 84 đến nay thì chỉ có khoảng vài ba ngàn người Việt mà thôi.
Thành Phố Canberra nhỏ thanh lịch có vẻ trí thức, nặng về du lịch, hành chánh và chính trị hơn là công kỹ nghệ nên chúng tôi cũng theo đó mà có cuộc sống êm đềm nặng về tu học cũng do vậy mà chúng tôi có ý nguyện thành lập một Viện Phật Học Cao Cấp tại đó đến nay sự xây cất hạ tầng cơ sở cũng được một phần ba và hy vọng trong vòng 10 năm tới Tu Viện Vạn Hạnh sẽ trở thành Viện Phật Học cao cấp nhằm huấn luyện , đào tạo và giảng dạy cho Tăng Ni,ø Phật Tử người Úc cũng như người Việt và các sắc tộc khác cho họ hiểu biết thêm về Phật Giáo đặc biệt là Phật Giáo VN với truyền thống Đại Thừa Nhập Thế.
NN: Thưa Thầy chúng tôi nghe nói cuộc sống của người Việt tại Úc cũng khá nhiêu khê, nhất là từ khi Bộ Sắc Tộc có những vấn đề như là kỳ thị ..v..v.. thì xin hỏi Thầy Phật Giáo có bị ảnh hưởng gì không"
TT Quảng Ba: Trên tin tức chính thức thì chúng tôi e rằng cái phản ảnh đó không có gần với thực tế cho lắm. Suốt trong hơn hai mươi mấy năm qua, lần lượt chánh phủ của hai Đảng Lao Động và Đảng Tự Do thay phiên nhau cầm quyền tại Úc thì cả hai đều đồng thuận trên vấn đề là: Duy trì và phát triển một xã hội đa văn hóa, giúp đỡ các di dân mới đến định cư trong vòng 50 năm qua có thể sinh hoạt ôn hòa và bao dung trong xã hội Úc. Họ đã đưa ra một năm rất nhiều sự tài trợ cho các đoàn thể thuộc các sắc tộc thiểu số phát huy nền văn hóa trong nhiều lãnh vực khác nhau như ngôn ngữ, tập quán, nghệ thuật ..v..v..
Thật sự ra cũng có một đảng rất nhỏ đó là đảng "Một Quốc Gia" (One Nation) cũng có thái độ kỳ thị di dân nhất là di dân Á châu. Nhưng các đảng lớn trong thời gian cầm quyền hơn hai mươi mấy năm qua đã đồng ý hủy diệt chính sách " Nước Úc cho da trắng" thì từ đó đến nay không có sự kỳ thị nào, có thể cũng có một vài hành đông của một vài người hay vài nhóm nhỏ không đáng kể mà quốc gia nào cũng có. Nói chung dân Úc rất ôn hòa lúc nào cũng bao dung và quý trọng ít nhất là trên mặt chính sách và luật pháp còn bên trong thì thật ra chúng ta không làm sao biết được.
Phần chúng tôi suốt thời gian qua không thấy có gì trở ngại và rất dễ sống.
NN: Được biết ngay những ngày đầu đặt chân lên trại tỵ nạn thì Thầy đã có những sinh hoạt với giới trẻ. Thầy nghĩ gì về thế hệ thanh niên tại Úc nói chung và Gia Đình Phật Tử nói riêng"
TT Quảng Ba: Thật ra sau khi ra khỏi nhà tù Cộng Sản năm 82 và đến được trại ty nạn Bidong Mã Lai năm 83 thì chúng tôi đã bắt đầu trở lại công cuộc Hoằng Pháp sau 7-8 năm sống dưới chế độ CS không giảng pháp, không tổ chức chùa chiền cũng như không sinh hoạt với GĐPT được.
Ngay khi đến Bidong thì chúng tôi đã thành lập ngay hai đoàn đó là đoàn Thanh Niên Phật Tử Quảng Đức và GĐPT Long Hoa. Tuy GĐPT Long Hoa đã có sẵn nhưngø chúng tôi chấn chỉnh và phát triển lại rất mạnh, nhiều đoàn sinh hiện nay vẫn còn sinh hoạt trên khắp Hoa Kỳ, Canada và Úc Châu, với lại chúng tôi cũng đã từng là Cố vấn Giáo Hạnh cho GĐPT/VN từ thập niên 70 nên tâm nguyện lúc nào cũng mong mỏi được đem Phật Pháp đến cho thế hệ thanh niên trong xã hội. Lực bất tòng tâm tuy mình có nguyện vọng lớn, hoài bão lớn nhưng trong xã hội tây phương ưa chuộng về vật chất, hưởng thụ ích kỷ làm cho các tôn giáo gặp nhiều khó khăn khi muốn thu hút người trẻ đến với tôn giáo của mình.
Riêng Phật giáo có một lợi thế là dân chúng đa phần theo Phật Giáo,ø chùa chiền đều do quý Tăng Ni thành lập thu hút rất nhiều người Việt đến sinh hoạt, trái với một vài tôn giáo khác phải thuê mượn các địa điểm của người bản xứ để hành lễ.
Tuy nhiên thế hệ sanh ra tại hải ngoại hoăïc lớn lên tại hảõi ngoại lần lượt khả năng Việt ngữ bị yếu kém khiến cho việc truyền bá giảng dạy giáo lý, văn hóa trở nên khó khăn, cho nên thế hệ Tăng Ni và Huynh Trưởng GĐPT tại hải ngoại phải gia tăng khả năng Anh ngữ của mình để khi có thể truyền đạt được tư tưởng, lịch sử và văn hóa VN nhất là giáo lý Phật Giáo VN bằng song ngữ khi cần thiết , mặc dù chương trình dạy tiếng Việt hàng tuần chưa bao giờ bị gián đoạn và rất nỗ lực nhưng khả năng dạy cũng như tiếp thu rất chậm nên giáo lý phải đi trước nên đôi khi ta phải dùng song ngữ đó là điểm mấu chốt quan trọng, ngoài ra cũng phải lưu ý đến quan điểm sống cũng như tuổi tác của các em trong xã hội tây phương. Tôi nghĩ đó là một vài điều mà quý vị Tăng Ni trẻ cũng như anh chị em huynh trưởng GĐPT cần lưu tâm.
NN: Qua Đại Hội tại San Diego một ủy ban vận động và nghiên cứu về vấn đề GĐPT đã được thành lập mà Thầy là một trong 8 thành viên tiên khởi, Thầy nghĩ sao về vấn đề này" Theo Thầy cách giải quyết nào mà Thầy cho là tốt nhất"
TT Quảng Ba: Đại hội đã thành lập một ủy ban gồm có Pháp Sư Thích Giác Đức, TT Thích Giác Đẳng, TT Thích Như Điển (Đức Quốc) Tôi, Giáo sư Võ Văn Ái. GS Bùi Ngọc Đường, HTr Tâm Huệ Cao Chánh Hựu. Tóm lại chúng tôi có bổn phận trong một vài tháng sắp tới đây phải tìm cơ hội để gặp gỡ và lắng nghe mọi quan điểm, mọi đề nghị, mọi ý kiến và mọi tin tức khác nhau của các tổ chức GĐPT trên khắp mọi nơi như Canada, Úc Châu, Âu Châu lẫn các khuynh hướng của mọi tổ chức GĐPT tại Hoa Kỳ để tìm một phương pháp dung thông nhất, hòa hợp nhất, tốt đẹp nhất mà trong điều kiện hiện nay cho phép, tuy nhiên cũng không thể loại trừ trường hợp chưa thể đạt được một kết quả dung thông trong năm này thì cũng phải có một giải pháp tạm thời để dẫn tới một tình trạng tốt đẹp hơn trong tương lai. Không tiện để cho tôi có thể đi vào mọi chi tiết trong một cuộc nói chuyện ngắn như thế này tuy nhiên cái hoài bão chung của Chư Tăng và Giáo Hội nhìn thấy tuổi trẻ ở hải ngoại ngoài các hệ thống Hướng Đạo Phật Tử, Sinh viên và Thanh Niên Phật tử tương đối khá là khiêm tốn, lẻ loi tương đối ít thì hệ thống tổ chức GĐPT là một tổ chức có nhiều kinh nghiệm, có một chiều dài lịch sử và có một hệ thống tương đối tươm tất và quy củ nhất do đó cho nên được Quý Thầy trong mọi Giáo Hội thương mến và tin cậy nhiều nhất, những trục trặc nào đã xảy ra trong quá khứ khiến cho chúng ta bây giờ phải mất công giải quyết thì đương nhiên phải đối diện và phải ôn hòa,khiêm tốn giải quyết đem lại sự an ổn cho tổ chức, đem lại sựø ích lợi cho Phật Pháp và không hề với thành kiến, không hề với sự chia rẽ và nhất là không bởi sự thúc ép của bất kỳ nhóm nào, đó là khuynh hướng chung mà trong ủy ban chúng tôi đã có bàn qua.
NN: Câu hỏi chót, có tính cách tình cảm, TT nghĩ gì về sự ra đi mới đây của Hòa Thượng Thích Thiện Siêu"
TT Quảng Ba: Tôi nghĩ tờ Việt Báo đã có đăng tiểu sử của Hòa Thượng mà chúng tôi thong quý thường gọi là Ôn Từ Đàm. Độc giả chắc cũng đã thấy và hiểu nhiều, tuy nhiên đây cũng là cái tâm cảm riêng. Chúng tôi sau nhiều năm theo học sơ cấp và trung cấp Phật học tại Bình Định đã đến Nhatrang để tham học về chương trình cao đẳng Phật học tại Viện cao đẳng Phật học Hải Đức mà cố HT Thích Trí Thủ là Giám Viện và cố HT Thích Thiện Siêu là Viện Trưởng, trong gần 3 năm từ 73 đến 76, Hòa Thượng Thiện Siêu là bậc thầy dạy chúng tôi về Tam Tạng Kinh Điển và khuyến khích chúng tôi trên con đường tiến tu, học tập để sau này phục vụ Giáo hội trong tương lai, rất tiếc khóa học cao cấp này chưa được tốt nghiệp thì đã bị Cộng Sản vào chiếm đóng và trường bị đóng cửa. Thầy trò chúng tôi xa cách nhau đã gần hai mươi mấy năm. Trong mấy năm gần đây nghe tin Ôn trùng tu chùa Thuyền Tôn chúng tôi cũng có cổ động quyên góp cho quỹ trùng tu này, gần một năm nay nghe tin Ôn bị bệnh nặng phải di chuyển từ Huế vào SaiGòn chữa bệnh chúng tôi cũng góp phần cho chi phí chữa bệnh cho Ôn. Chúng tôi lúc nào cũng tìm mọi cách liên lạc điện thoại thăm hỏi Ôn và thưa hỏi những điều mà chúng tôi cần học hỏi thêm, phần Ôn lúc nào cũng thương mến chúng tôi mặc dù chúng tôi đã rời xa Ôn khá lâu một năm mới gọi thăm một hai lần, Tình thầy trò không có gì sơ khuyết chẳng qua Ôn bị thúc ép và hoàn cảnh khắc nghiệt của chính trị VN đã buộc Ôn phải dính vào chế độ thông qua Giáo Hội mới bây giờ mà chúng tôi luôn luôn coi là Giáo Hội bạn mà cần phải được thay đổi trong tương lai. Đó là một hạnh nguyện lớn mà Ôn đã bước đi một bước rất xa có thể vài người không hiểu hết hạnh nguyện của Ôn nhưng chắc chắn Ôn đã đem lại sự an tâm và tiếp tục cái sứ mạng 54 năm giảng dạy Giáo lý, Kinh Điển cho không biết bao nhiêu thế hệ Tăng Ni trong suốt 54 năm qua. Tôi là thế hệ Học Tăng có thể nói là giữa đời của Ôn. Ôn bắt đầu dạy kinh điển cho Tăng Ni từ năm 47 sau khi đã tốt nghiệp tại Báo Quốc đến khi được làm học trò Ôn năm 73 thì đã là 26 năm và từ 73 đến nay cũng đã 28 năm. Hàng ngàn, hàng ngàn Tăng Ni, Phật Tử được theo học với Ôn đều biết rằng Ôn là vị chân tu khả kính, học hạnh rất sâu, rất trang nghiêm và có lòng từ bi lớn. Ôn là một vị Thầy lớn trong hơn nữa thế kỷ qua mà tôi nghĩ khó có thể tìm lại được một bậc thầy như vậy cho Phật Giáo Việt Nam.
NN: Xin cám ơn Thượng Tọa về buổi nói chuyện hôm nay, xin chúc TT Có nhiều điều vui trong thời gian ở Mỹ và thay mặt tòa soạn cũng như đọc giả Việt Báo chúc TT trở về trú xứ bình an.
TT Quảng Ba: Lời cuối cùng xin gởi đến anh chị Nhã Ca và Trần Dạ Từ là người bạn tù của chúng tôi thời 76-80, chúc anh cùng toàn thể nhân viên tòa soạn và đọc giả Việt Báo cũng như ø trên mạng lưới Internet lời chúc mừng thân thương nhất của chúng tôi, xin chúc quý vị luôn hạnh phúc trong gia đình thành đạt trên mọi phương diện. Cùng nhau hướng về tương lai Việt Nam, góp sức để giúp cho VN sớm thay đổi để sớm có dân chủ,tự do,phú cường thoát qua mọi ách nạn mà dân tộc phải gánh chịu trong nhiều năm qua.
Cá nhân mọi người đều nhỏ bé nhưng nếu có sự đồng cảm và sát vai nhau tôi có lòng tin mọi sự sẽ thành đạt như ý nguyện.
(Phóng viên Nguyễn Ngân, thực hiện tại Tòa Soạn Việt Báo ngày 9 tháng 10 năm 2001)