Hỏi (Bà Trần T.Q.H.): Cách đây gần 4 tháng, Cô của tôi bị bệnh và từ trần. Khi lo xong việc tang chế và chôn cất cho Cô tôi, tôi mới liên lạc với văn phòng của luật sư đã làm tờ di chúc cho Cô của tôi.
Tôi đã cung cấp cho họ toàn bộ giấy tờ khai tử của Cô tôi để luật sư này tiện bề lo thủ tục, hầu tài sản của Cô tôi được phân phối theo ý định của người.
Tuy nhiên, sau đó luật sư này đã cho biết là tôi không được hưởng phần $50,000.00 và chồng tôi không được hưởng $10,000.00 mà cô tôi đã để lại cho chúng tôi trong di chúc.
Tôi hỏi lý do thì luật sư của tôi cho tôi biết rằng chồng của tôi cùng với ông ta đã ký vào di chúc của cô tôi như là những nhân chứng đã chứng kiến chữ ký của Cô tôi khi Cô ký vào di chúc tại văn phòng của vị luật sư này. Vì thế, theo luật định, tôi và chồng tôi không được nhận các số tiền tặng do Cô tôi để lại trong di chúc, vì chồng tôi là người thụ hưởng [tài sản] nên không thể ký tên với tư cách là nhân chứng được.
Vấn đề ở đây là Cô tôi không có con. Sau khi qua đời tôi mới biết được rằng Dượng tôi đã có hai người con với một góa phụ khác. Hiện nay Dượng tôi đã chính thức sống chung với bà góa phụ này.
Trong di chúc, ngoài số tiền cho tôi và chồng tôi, Cô tôi đã để lại toàn bộ tài sản cho Dượng tôi.
Nếu tôi và chồng tôi không được nhận số tiền nêu trên, điều này có nghĩa là tôi đã bị mất đi quyền thừa kế, vì tôi không được thừa hưởng những gì mà Cô tôi có ý định để lại cho tôi.
Xin hỏi LS là trong trường hợp này tôi có quyền khiếu nại để kiện vị luật sư này hay không"
Trả lời: “Đạo Luật về Di Chúc, sự Chứng Thực và sự Quản Lý Tài Sản của Người Quá Cố” (the Wills, Probate and Administration Act) quy định rằng:
“Nếu người thụ hưởng theo di chúc là một trong những ‘nhân chứng chứng thực,’ di chúc vẫn có hiệu lực, nhưng bản thân của đương sự sẽ bị mất quyền lợi đối với bất cứ tặng vật nào tặng cho đương sự theo di chúc. Vợ hoặc chồng của ‘nhân chứng chứng thực’ cũng sẽ bị mất bất cứ quyền lợi nào theo di chúc nếu đương sự đã kết hôn với nhân chứng vào lúc di chúc được thực hiện.” (If a beneficiary under the will is one of the ‘attesting witnesses,’ it will be valid, but he himself will lose the benefit of any gift made to him by the will. The husband or wife of an ‘attesting witness’ will also lose any benefit under the will if he or she was married to the witness when the will was executed).
[Ghi chú: “Nhân chứng chứng thực” (attesting witness) có thể được định nghĩa là người thực sự chứng kiến việc thực hiện về một văn kiện và chứng nhận bằng cách ký tên vào văn kiện xác nhận rằng văn kiện đã được thực hiện thích đáng với sự hiện diện của đương sự. (attesting witness may be defined as a person who actually witnesses the execution of a document and certifies by subscription that it has been duly executed in his or her presence).]
Trong vụ Hill & Associates v. Van Erp (1997). Trong vụ đó, “bị đơn” là một luật sư mà luật sư này đã được yêu cầu soạn một bản di chúc cho thân chủ của cô ta. Thân chủ đã ký vào di chúc và đã qua đời 5 tháng sau đó. “Nguyên đơn” là người thụ hưởng theo di chúc, đã bị mất quyền nhận tặng vật được để lại bằng di chúc bởi vì chồng của cô ta đã làm “nhân chứng chứng thực” (attesting witness) khi tờ di chúc này được thiết lập. Việc này đã làm cho tờ di chúc vô hiệu lực theo điều 15 thuộc “Đạo Luật về sự Thừa Kế” (the Succession Act) tại Queensland.
“Luật sư ” đã hiểu rõ tình trạng của nhân chứng, vì thế “nguyên đơn” cho rằng luật sư đã tắc trách.
Vị luật sư này đã tranh cãi trước tòa rằng bà ta không có trách nhiệm gì đối với “nguyên đơn” cả, vì “nguyên đơn” không phải là thân chủ của bà. Tuy nhiên, vị thẩm phán tọa xử đã đưa ra phán quyết rằng luật sư đã tắc trách và đánh giá sự thiệt hại là $163,471.50.
Vị luật sư này bèn kháng án lên “Tối Cao Pháp Viện của Queensland” (the Supreme Court of Queensland,” nhưng đơn đã bị bác. Đương sự bèn kháng án lên “Tối Cao Pháp Viện Liên Bang” (the High Court of Australia).
Vấn đề được đặt ra cho “Tối Cao Pháp Viện Liên Bang” để suy xét là liệu bị đơn có “trách nhiệm phải quan tâm đúng mức [về phần vụ của mình]” (duty of care) hay không" và liệu sự thiệt hại của “nguyên đơn” có được bồi thường “theo luật về trách nhiệm dân sự” (in tort) hay không"
Chánh Án Brennan [Brennan CJ] đã nhắc lại lời tuyên bố của Lord Goff trong vụ White kiện Jones [1995] rằng:
Thứ nhất, theo nguyên tắc tổng quát đã được thiết định thì luật sư đại diện cho thân chủ chỉ chịu trách nhiệm đối với thân chủ. Mối quan hệ giữa luật sư và thân chủ dường như luôn luôn là mối quan hệ dựa trên hợp đồng, và phạm vi trách nhiệm của luật sư sẽ được đề ra trong “hợp đồng thuê bao luật sư” (retainer).
Một lý do khác để tái xác nhận về việc luật sư không chịu trách nhiệm theo luật trách nhiệm về dân sự đối với với “người thụ hưởng” (beneficiary) ngoại trừ trường hợp “nguyên đơn” có thể chứng minh được rằng “bị đơn” vi phạm hợp đồng.
1. Liệu luật sư phải chịu trách nhiệm đối với “người thụ hưởng” hay không"
Tòa cho rằng mặc dầu luật sư chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ theo hợp đồng đối với thân chủ, điều đó không có nghĩa là luật sư sẽ không chịu trách nhiệm theo luật về trách nhiệm dân sự đối với “đệ tam nhân” (third person, third party).
Theo luật về trách nhiệm dân sự, yếu tố căn bản cần thiết về “trách nhiệm phải quan tâm đúng mức [về phần vụ của mình]” (duty of care) là việc thấy trước được sự thiệt hại sẽ gây ra đối với người khác, nếu thực hiện công việc một cách tắc trách….
2. Liệu tố quyền có được phép khởi động bởi người thụ hưởng khi đương sự không nhận được “tặng vật có ý định trao cho” (intended gift) hay không"
Tòa cho rằng “nguyên đơn” không mất mát gì cả, vì đương sự không nhận được quyền lợi mà đương sự chưa được quyền về phương diện pháp lý. Một món quà mà người nhận vẫn không có quyền về phương diện pháp lý trước khi vật đó được trao cho đương sự. Hơn nữa đương sự cũng không có quyền hạn để buộc người hiến tặng phải trao vật đó cho đương sự…..
Tuy nhiên, Tòa đã bác đơn kháng án của luật sư và buộc luật sư phải bồi thường, vì cho rằng hầu hết các người muốn lập di chúc họ đã đến để nhờ luật sư chuyển đạt ý định của họ thành hiện thực. Mục đích của họ là nhờ luật sư lập di chúc để các người thân nhận lãnh tài sản của họ để lại một cách hợp pháp khi họ qua đời. Luật sư có nhiệm vụ phải cẩn trọng để ý định đó của họ không bị vô hiệu hóa bởi luật pháp.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn, bà có thể thấy được rằng việc luật sư không lưu ý để cho chồng của bà ký tên với tư cách là một trong những “nhân chứng chứng thực” trong di chúc của người Cô là một việc làm tắc trách có thể bị trách cứ bởi luật lệ về trách nhiệm dân sự. Nếu những gì bà nêu lên trong thư là đúng với sự thật thì bà có thể khởi động tố quyền.
Nếu còn thắc mắc, bà có thể liên lạc điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp.
Tôi đã cung cấp cho họ toàn bộ giấy tờ khai tử của Cô tôi để luật sư này tiện bề lo thủ tục, hầu tài sản của Cô tôi được phân phối theo ý định của người.
Tuy nhiên, sau đó luật sư này đã cho biết là tôi không được hưởng phần $50,000.00 và chồng tôi không được hưởng $10,000.00 mà cô tôi đã để lại cho chúng tôi trong di chúc.
Tôi hỏi lý do thì luật sư của tôi cho tôi biết rằng chồng của tôi cùng với ông ta đã ký vào di chúc của cô tôi như là những nhân chứng đã chứng kiến chữ ký của Cô tôi khi Cô ký vào di chúc tại văn phòng của vị luật sư này. Vì thế, theo luật định, tôi và chồng tôi không được nhận các số tiền tặng do Cô tôi để lại trong di chúc, vì chồng tôi là người thụ hưởng [tài sản] nên không thể ký tên với tư cách là nhân chứng được.
Vấn đề ở đây là Cô tôi không có con. Sau khi qua đời tôi mới biết được rằng Dượng tôi đã có hai người con với một góa phụ khác. Hiện nay Dượng tôi đã chính thức sống chung với bà góa phụ này.
Trong di chúc, ngoài số tiền cho tôi và chồng tôi, Cô tôi đã để lại toàn bộ tài sản cho Dượng tôi.
Nếu tôi và chồng tôi không được nhận số tiền nêu trên, điều này có nghĩa là tôi đã bị mất đi quyền thừa kế, vì tôi không được thừa hưởng những gì mà Cô tôi có ý định để lại cho tôi.
Xin hỏi LS là trong trường hợp này tôi có quyền khiếu nại để kiện vị luật sư này hay không"
Trả lời: “Đạo Luật về Di Chúc, sự Chứng Thực và sự Quản Lý Tài Sản của Người Quá Cố” (the Wills, Probate and Administration Act) quy định rằng:
“Nếu người thụ hưởng theo di chúc là một trong những ‘nhân chứng chứng thực,’ di chúc vẫn có hiệu lực, nhưng bản thân của đương sự sẽ bị mất quyền lợi đối với bất cứ tặng vật nào tặng cho đương sự theo di chúc. Vợ hoặc chồng của ‘nhân chứng chứng thực’ cũng sẽ bị mất bất cứ quyền lợi nào theo di chúc nếu đương sự đã kết hôn với nhân chứng vào lúc di chúc được thực hiện.” (If a beneficiary under the will is one of the ‘attesting witnesses,’ it will be valid, but he himself will lose the benefit of any gift made to him by the will. The husband or wife of an ‘attesting witness’ will also lose any benefit under the will if he or she was married to the witness when the will was executed).
[Ghi chú: “Nhân chứng chứng thực” (attesting witness) có thể được định nghĩa là người thực sự chứng kiến việc thực hiện về một văn kiện và chứng nhận bằng cách ký tên vào văn kiện xác nhận rằng văn kiện đã được thực hiện thích đáng với sự hiện diện của đương sự. (attesting witness may be defined as a person who actually witnesses the execution of a document and certifies by subscription that it has been duly executed in his or her presence).]
Trong vụ Hill & Associates v. Van Erp (1997). Trong vụ đó, “bị đơn” là một luật sư mà luật sư này đã được yêu cầu soạn một bản di chúc cho thân chủ của cô ta. Thân chủ đã ký vào di chúc và đã qua đời 5 tháng sau đó. “Nguyên đơn” là người thụ hưởng theo di chúc, đã bị mất quyền nhận tặng vật được để lại bằng di chúc bởi vì chồng của cô ta đã làm “nhân chứng chứng thực” (attesting witness) khi tờ di chúc này được thiết lập. Việc này đã làm cho tờ di chúc vô hiệu lực theo điều 15 thuộc “Đạo Luật về sự Thừa Kế” (the Succession Act) tại Queensland.
“Luật sư ” đã hiểu rõ tình trạng của nhân chứng, vì thế “nguyên đơn” cho rằng luật sư đã tắc trách.
Vị luật sư này đã tranh cãi trước tòa rằng bà ta không có trách nhiệm gì đối với “nguyên đơn” cả, vì “nguyên đơn” không phải là thân chủ của bà. Tuy nhiên, vị thẩm phán tọa xử đã đưa ra phán quyết rằng luật sư đã tắc trách và đánh giá sự thiệt hại là $163,471.50.
Vị luật sư này bèn kháng án lên “Tối Cao Pháp Viện của Queensland” (the Supreme Court of Queensland,” nhưng đơn đã bị bác. Đương sự bèn kháng án lên “Tối Cao Pháp Viện Liên Bang” (the High Court of Australia).
Vấn đề được đặt ra cho “Tối Cao Pháp Viện Liên Bang” để suy xét là liệu bị đơn có “trách nhiệm phải quan tâm đúng mức [về phần vụ của mình]” (duty of care) hay không" và liệu sự thiệt hại của “nguyên đơn” có được bồi thường “theo luật về trách nhiệm dân sự” (in tort) hay không"
Chánh Án Brennan [Brennan CJ] đã nhắc lại lời tuyên bố của Lord Goff trong vụ White kiện Jones [1995] rằng:
Thứ nhất, theo nguyên tắc tổng quát đã được thiết định thì luật sư đại diện cho thân chủ chỉ chịu trách nhiệm đối với thân chủ. Mối quan hệ giữa luật sư và thân chủ dường như luôn luôn là mối quan hệ dựa trên hợp đồng, và phạm vi trách nhiệm của luật sư sẽ được đề ra trong “hợp đồng thuê bao luật sư” (retainer).
Một lý do khác để tái xác nhận về việc luật sư không chịu trách nhiệm theo luật trách nhiệm về dân sự đối với với “người thụ hưởng” (beneficiary) ngoại trừ trường hợp “nguyên đơn” có thể chứng minh được rằng “bị đơn” vi phạm hợp đồng.
1. Liệu luật sư phải chịu trách nhiệm đối với “người thụ hưởng” hay không"
Tòa cho rằng mặc dầu luật sư chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ theo hợp đồng đối với thân chủ, điều đó không có nghĩa là luật sư sẽ không chịu trách nhiệm theo luật về trách nhiệm dân sự đối với “đệ tam nhân” (third person, third party).
Theo luật về trách nhiệm dân sự, yếu tố căn bản cần thiết về “trách nhiệm phải quan tâm đúng mức [về phần vụ của mình]” (duty of care) là việc thấy trước được sự thiệt hại sẽ gây ra đối với người khác, nếu thực hiện công việc một cách tắc trách….
2. Liệu tố quyền có được phép khởi động bởi người thụ hưởng khi đương sự không nhận được “tặng vật có ý định trao cho” (intended gift) hay không"
Tòa cho rằng “nguyên đơn” không mất mát gì cả, vì đương sự không nhận được quyền lợi mà đương sự chưa được quyền về phương diện pháp lý. Một món quà mà người nhận vẫn không có quyền về phương diện pháp lý trước khi vật đó được trao cho đương sự. Hơn nữa đương sự cũng không có quyền hạn để buộc người hiến tặng phải trao vật đó cho đương sự…..
Tuy nhiên, Tòa đã bác đơn kháng án của luật sư và buộc luật sư phải bồi thường, vì cho rằng hầu hết các người muốn lập di chúc họ đã đến để nhờ luật sư chuyển đạt ý định của họ thành hiện thực. Mục đích của họ là nhờ luật sư lập di chúc để các người thân nhận lãnh tài sản của họ để lại một cách hợp pháp khi họ qua đời. Luật sư có nhiệm vụ phải cẩn trọng để ý định đó của họ không bị vô hiệu hóa bởi luật pháp.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn, bà có thể thấy được rằng việc luật sư không lưu ý để cho chồng của bà ký tên với tư cách là một trong những “nhân chứng chứng thực” trong di chúc của người Cô là một việc làm tắc trách có thể bị trách cứ bởi luật lệ về trách nhiệm dân sự. Nếu những gì bà nêu lên trong thư là đúng với sự thật thì bà có thể khởi động tố quyền.
Nếu còn thắc mắc, bà có thể liên lạc điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp.
Gửi ý kiến của bạn



