Hôm nay,  

Tiền Đồn Chống Cộng Hay Chống Bành Trướng Hán Tộc?

23/11/200600:00:00(Xem: 15573)

VN: Tiền Đồn Chống Cộng Hay Chống Bành Trướng Hán Tộc"   

(LTS. Ngân Giang là bút hiệu của một chiến binh Mỹ gốc Việt, vừa từ chiến trường Iraq về lại tiểu bang nhà là Texas. Bài sau đây cho thấy tấm lòng tác giả, dù xông pha nơi mặt trận Iraq, lòng vẫn nghĩ tới cuộc chiến vì tự do dân chủ cho Việt Nam, và vì sự an nguy của dân tộc trước làn sóng Trung Quốc.)

Lịch sử có thể giống như một cuộn tơ rối bùng, hay có thể giống như những sự kiện rời rạc, đơn lẻ. Nhưng lịch sử cũng có thể là những chuỗi sự kiện liên kết, giống như những sợi chỉ xuyên suốt. Vấn đề là lần mò ra từng sợi chỉ đan xen nhau đó. Bài viết này mong được góp phần tìm ra được 1 trong vô vàn các sợi chỉ lịch sử đó. Khiêm tốn hơn, bài viết chỉ đền cập đến lịch sử Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á.

Cuộc chiến Việt Nam kết thúc năm 75, và chỉ riêng tên gọi cho cuộc chiến đã không có mẫu số chung. Người Mỹ xem cuộc chiến này, ít ra là nhũng năm đầu chiến tranh Đông Dương, là cuộc chiến chống chủ nghĩa Cộng Sản, và miền Nam Việt Nam là tiền đồn chống Cộng. Nhưng cuộc chiến đã kết thúc hơn 30 năm, cuộc chiến ấy có ý nghĩa gì" Chủ nghĩa Cộng Sản chỉ mới có 1 thế kỷ rưỡi đổ lại, và Nhà Nước Cộng Sản đầu tiên cũng chỉ mới xuất hiện năm 1917. Đó là quãng thời gian quá ngắn so với lịch sử dân tộc Việt Nam kéo dài ít nhất hơn ba ngàn năm (theo truyền thuyết thì nước Việt Nam có đến 5 ngàn năm Văn Hiến). Như vậy cuộc chiến VN có phải là 1 móc nối trong 1 chuỗi sự kiện liên kết nhau 1 cách khăng khít nào đó" Ta thử điểm lại vài nét chính của sử Việt.

Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, đặt nền móng cho 1 nền độc lập tự chủ lâu dài của Đại Việt. Lý Thường Kiệt phá Tống trên sông Như Nguyệt năm 1077. Vua tôi nhà Trần 3 lần đại phá quân Nguyên nửa cuối thế kỷ 13. Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, chấm dứt âm mưu đồng hóa dân Việt của Hán tộc. Và cuối cùng là trận Đống Đa của vua áo vải Quang Trung làm tiêu tan tham vọng bành trướng bờ cõi của nhà Thanh xuống phương Nam.

Cuộc chiến Việt Nam thật ra đã được quyết định vào năm 1972, khi Tổng Thống Hoa Kỳ Nixon công du qua Trung Hoa bắt tay với Chủ Tịch Mao. Điều đó có ý nghĩa gì"

Năm 1979, chiến tranh biên giới Việt Hoa diễn ra đã phá tan huyền thọai đòan kết giữa các nước XHCN anh em. Điều đó có ý nghĩa gì"

Đi ngược lại lịch sử, ta không quên chiến tranh Pháp Thanh từ cuối năm 1884 đến giữa năm 1885, và cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất, 1947 đến 1954. Cả 2 cuộc chiến Trung Quốc đều đưa lính qua biên giới vào Việt Nam mượn tiếng giúp Việt Nam chống thực dân.

Bây giờ ta có thể liện hệ những sự kiện ở trên (được nhắc qua 1 cách rất đại lược) thì có thể tìm ra 1 sợi chỉ xuyên suốt trong sử Việt. Cuộc chiến Việt Nam, hay có người còn gọi là cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2, nếu chỉ nhìn trong giới hạn thế kỷ 20 từ góc độ của 1 bộ phận người Mỹ, hay ít ra là qua sự tuyên truyền của các chính phủ Mỹ từ Truman đến Nixon, là cuộc chiến chống Chủ Nghĩa Cộng Sản, và Việt Nam là tiền đồn chống Cộng. Nhưng nếu đặt cuộc chiến đó vào bối cảnh lịch sử hơn 2 ngàn năm ở bán đảo Đông Dương thì đó là cuộc chiến ngăn chặn sự bành trướng của giống dân Hán xuống phương Nam.

Tổng Thống Nixon bắt tay vơi Mao Trạch Đông ngòai dụng ý chia rẽ khối Cộng Sản, cụ thể là giữa Liên Xô và Trung Quốc, còn có ý nghĩa tách rời Bắc Việt ra khỏi vòng kềm tỏa của Trung Quốc, đảm bảo 1 nước Việt Nam cho dù có Cộng Sản cũng không là 1 chư hầu của Trung Quốc. Bắc Việt rơi vào quỹ đạo Liên Xô sau 1975 và cuộc chiến biên giới 1979 có thể xem như là thành quả của chiến lược ngọai giao Nixon-Kissinger ở Đông Á.

Cuộc chiến VN tuy kết quả không như người Mỹ mong muốn nhưng chí ít nó cũng có tác dụng trong việc ngăn chặn làn sóng Cộng Sản bành trướng xuống vùng Đông Nam Á, mà cụ thể và chính xác hơn nếu ta lấy bối cảnh lịch sử mấy ngàn năm lịch sử văn minh Đông Nam Á chứ không phải chỉ là mấy chục năm giữa thế kỷ 20, thì đó chính là cuộc chiến chống sự bành trướng của nền văn minh Hoa Hạ đối với nền văn minh lúa nước Đông Nam Á. Điển hình là các phong trào Cộng Sản ở Mã Lai Á và Nam Dương khi đó đều do các tổ chức người Hoa ở bản địa tổ chức và được sự hậu thuẫn của Hoa Lục Cộng Sản.

Các nước Đông Nam Á có vị trí địa lý đặc biệt. Nằm giữn 2 nền văn minh lớn của nhân lọai là Hoa và Ấn, các dân tộc vừa tiếp nhận, vưà dung hòa những gì học hỏi được từ 2 nền văn minh lớn Hoa Ấn, vừa cùng lúc phát triển bản sắc văn hóa riêng của chính mình. Trong các nước Đông Nam Á thì Việt Nam chiếm 1 vị trị đặc biệt hơn cả, nhìn từ góc độ văn hóa lịch sử. Ấy là vì Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc, Việt Nam nằm ngay mũi Nam tiến của Hán tộc (Hán tộc bành trướng từ vùng duyên hải trước rồi mới tiến vào lục địa nên Miến, Thái và Lào không nằm ở vị tri "éo le" như Việt Nam). Lại không giống Miến Điện có cùng biên giới với Ấn Độ, một nước mà chủ nghĩa bành trướng văn hóa rất yếu so với Trung Hoa.

Nhìn từ góc độ địa chính trị, có thể nói Việt Nam là tiền đồn chống sự bành trướng Trung Hoa của khối các nước Đông Nam Á. Trong lịch sử, Việt Nam đóng vai trò như một cục cao su chặn khuynh hướng phình to của Trung Hoa. Cục cao su có sức đàn hồi, tiếp nhận vào hóa giải những va chạm, xâm lấn từ phương Bắc xuống phương Nam.

Những cuộc Nam tiến của Đại Việt từ vua Lý Thánh Tông qua các đời Trần, Hồ, Lê, Nguyễn chinh phục và sáp nhập nước Chiêm Thành, lấy đất của Vương Quốc Khơme không phải chỉ để mở mang bờ cõi Đại Việt (một khuynh hướng tự nhiên của các dân tộc, không khác với Hán tộc) mà còn để củng cố, thổi 1 luồng sinh khi mới qua sự thâu nhập những nền văn minh mới ở phía Nam, một điều mang tính sinh tồn đối với tộc Việt trước sự đe dọa đồng hóa luôn thôi thúc ở phương Bắc.

Trong công cuộc bảo tồn văn hóa Việt Nam (vốn bao gồm tấc cả các dân tộc sống ở dải đất hình chữ S ngày nay, gồm Kinh, Thượng, Miên, Thái, Mường...), Việt Nam vô hình chung mang trên mình sứ mạng ngăn chặn, hay có thể dùng từ mang tính thời đại là "đắp đê" (containment), khuynh hướng không ngừng bành trướng của Trung Hoa.

Các cuộc nội chiến trong sử Việt, từ cuộc nội chiến Mạc Lê thế kỷ 16, hay Trịnh Nguyễn thế kỷ 17 cho đến khi phong trào Tây Sơn nổi lên tạo ra 1 cục diện hỗn chiến triền miên khốc liệt suốt nửa cuối thế kỷ 18 giữa các dòng họ và thế lực cả ngọai bang lẫn nội bang, tất cả đều chứa đựng một ý nghĩa chung là Việt Nam, qua sự ủy nhiệm vô hình của các nước Đông Nam Á, đang tìm cho mình một chính quyền hữu hiệu, đủ mạnh để chặn nút sức Nam tiến của Hán tộc. Kết quả của các cuộc nội chiến không nhất thiết là sự thiết lập một vương quyền hữu hiệu nhất trong việc bảo tồn nền độc lập của Việt Nam, gián tiếp bảo tồn sự độc lập của nền văn minh Đông Nam Á đối với Trung Hoa, nhưng ít ra là cho đến ngày hôm nay, nước Việt Nam vẫn giữ được nền độc lập tự chủ trước sự đe dọa bành trướng của Trung Hoa.

Người viết phải mở ngoặc ở đây để xác nhận bài viết không có ý đề cao Việt tộc hay bài bác Hán tộc. Dân tộc nào cũng có khuynh hướng bành trướng. Nước Việt Nam nhỏ hơn Trung Hoa nên bành trướng ở phạm vi nhỏ hơn, chứ không phải là không bành trướng, dù là bành trướng vì bất cứ lý do gì. Hơn nữa, văn minh Hoa Hạ lan tỏa rộng khắp các nước Đông Á, trong đó có Việt Nam, mang nhiều yếu tố tích cực, góp phần tạo nên bản chất, phong cách, và bản sắc riêng của Việt Nam, một đất nước không phải là một Trung Hoa nối dài, cũng không phải chỉ là một phần của nền văn minh Đông Nam Á mà thôi. Vị trí địa lý của nước Việt Nam là 1 điều kiện khách quan, nó giúp hình thành con người Việt Nam, một đất nước đa chủng nhưng mang tính thống nhất và có bản sắc văn hóa riêng, dung hòa tất cả các nền văn minh chung quanh, nhưng không hòa tan để mất đi tính chất văn hóa bản địa của mình.

Nhận thức được vai trò và vị trí của Việt Nam trong suốt gần bốn ngàn năm lịch sử (tính từ văn minh Phùng Nguyên, Đồng Đậu cho đến nay), ta có thể thấy được một phần ý nghĩa của những sự kiện gần đây. Việc Việt Nam tham gia tổ chức ASEAN năm 1995, một tổ chức được thành lập từ năm 1967 quy tụ các nước Đông Nam Á, bình thường quan hệ ngọai giao với Mỹ năm 1994, tham gia tổ chức WTO năm 2006 phản ảnh những bước đi tất yếu của một đất nước đi tìm đồng minh mới, mở rộng phạm vi bạn bè sau một thời kỳ dài duy ý chí, giáo điều để rồi tự cô lập và trở nên kiệt quệ về kinh tế, chính trị, cho đến văn hóa, và từ đó không đủ sức cáng đáng vai trò tiền đồn chống sự bành trướng của một nước Trung Hoa đang vươn mình đứng dậy trở thành một siêu cường tương lai thứ 2 trên thế giới sau một giấc ngủ dài hơn 2 thế kỷ.

Hội Nghị APEC năm 2006 được tổ chức ở VN đặt trước giới lãnh đạo Việt Nam một ngã rẽ. Hoặc là tiếp tục lệ thuộc vào Hoa Lục Cộng Sản vì cùng chung ý thức hệ và điểm tựa quyền lực, hoặc tìm một liên minh mới với Hoa Kỳ, một siêu cường không có khuynh hướng bành trướng và bóp nghẹt kinh tế, chính trị và văn hóa các dân tộc khác như Hán tộc, và xích lại gần hơn nữa các nước láng giềng trong tổ chức ASEAN vốn có nguồn gốc và văn hóa rất gần gũi với Việt Nam, nhằm hóa giải hoặc ít ra giảm thiểu sự lệ thuộc vào Trung Quốc. Sự lệ thuộc dù là ý thức hệ cũng đều nguy hiểm. Bài học của các triều đại phong kiến VN quá lệ thuộc tư tưởng Bắc triều góp phần vào việc mất nước vào tay người Pháp xảy ra cách đây chỉ mới hơn 100 năm.

Nói cho cùng, một chính quyền, chế độ cũng chỉ là phương tiện để đạt đến cứu cánh thịnh vượng, phú cường cho một dân tộc, đất nước. Phương tiện đã lồi thời, không phát huy được hiệu quả thì cần được thay đổi, đào thải. Nhưng vì nó chỉ là một phương tiện, nên thiết nghĩ việc thay đổi hay lật đổ không phải là cứu cánh được. Kết thúc bài viết, thiết nghĩ cộng đồng người Việt hải ngọai không chỉ thụ động hy vọng Đảng cầm quyền trong nước, giới lãnh đạo Việt Nam hiện thời có tư duy thực sự đổi mới, thông thóang va cởi mở hơn trong cách nhìn và đánh giá lịch sử, chấp nhận mọi sự đóng góp ý kiến và xây dựng một xã hội dân chủ thực sự, nhưng cộng đồng người Việt nên có cái nhìn khách quan theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam để nhận thức đúng đâu là vấn đề then chốt và mang tính thời đại đối với tiền đồ đất nước Việt Nam kiên cường.

20 Nov 2006

El Paso, TX

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.